tai lieu chuan da duoc kiem tra ,cac ban cu coppy roi in raq may ma lam
Mình xin gửi bạn tham khảo bài làm này, để bạn làm bài được tốt hơn!!!
Bài làm
Năm 1859, giặc Pháp tấn công thành Gia Định, Nguyến Đình Chiểu viết bài thơ “Chạy giặc”, hai câu kết nói lên mong ước thiết tha:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng / Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
Và mấy năm sau, Nhà thơ viết bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” - đình cao nghệ thuật và tư tưởng trong sự nghiệp thơ văn của ông. Có thể coi bài văn tế là tấm lòng trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu đối với những nghĩa sĩ anh hùng của nhân dân ta trong buổi đầu chống Pháp xâm lược. Nhà thơ mù đất Đồng Nai đã dựng lên một “tượng đài nghệ thuật” mang tính chất bi tráng về người nông dân yêu nước chống ngoại xâm.
Sau khi chiếm đóng 3 tỉnh miền Đông, giặc Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền tây Nam Bộ. Năm 1861, vào đêm 14/12, nghĩa quân đã tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc, thuộc tỉnh Long An ngày nay.Trận đánh diễn ra vô cùng ác liệt “làm cho mã tà, ma ní hồn kinh”, Gần 30 chiến sĩ nghĩa quân đã anh dũng hi sinh. Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài văn tế này - bài ca về người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang.
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một “tượng đài nghệ thuật” hiếm có. “Bi tráng” là tầm vóc và tính chất của tượng đài nghệ thuật ấy: vừa hoành tráng, hùng tráng vừa thống thiết, bi ai. Hùng tráng ở nội dung chiến đấu vì nghĩa lớn. Hùng tráng ở phẩm chất anh hùng, ở đức hi sinh quyết tử. Hùng tráng ở chỗ nó dựng lên 1 thời đại sóng gió dữ dội, quyết liệt của đất nước và dân tộc. Hoành tráng về quy mô, nó không chỉ khắc hoạ về 1 nghĩa quân, 1 anh hùng mà đông đảo những người “dân ấp dân lân mến nghĩa quân làm quân chiêu mộ” dưới ngọn cờ “bình tây” của Trương Công Định. Tính chất, quy mô hùng tráng, hoành tráng ấy lại gắn liền với bi ai đau thương thống thiết. “Cái tượng đài nghệ thuật” về người nông dân đánh Pháp giữa thế kỉ XIX đã được dựng lên trong nước mắt, trong tiếng khóc của nhà thơ, của nhân dân và cả của đất nước. Trong toàn bài văn tế đặc biệt trong phân thích thực và ai vãn , ta cảm nhận sâu sắc tính chất bi tráng này.
Mở đầu bài văn tế là 1 lời than qua 2 câu tứ tự song hành. Hai tiếng “Hỡi ôi!” vang lên thống thiết, đó là tiếng khóc của nhà thơ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo:
“Súng giặc, đất rền; lòng dân trời tỏ”
Tổ quốc lâm nguy. Súng giặc nổ vang rền trời đất và quê hương sứ sở.
“Tan chợ vưà nghe tiếng súng Tây…” (“Chạy giặc”). Trong cảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc cứu nước cứu nhà. Tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của nhân dân, của những người áo vải mới tỏ cùng trời đất và ság ngời chính nghĩa. Có thể nói cặp câu tứ tự này là tư tưởng chủ đạo của bài văn tế, nó được khắc trên đá hoa cương đặt ở phía trước, chính diện của “tượng đài nghệ thuật” ấy.
Hình ảnh trung tâm của “tượng đài nghệ thuật” “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là những chiến sĩ nghĩa quân. Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo sống cuộc đời “côi cút” sau luỹ tre làng. Chất phác và hiền lành, cần cù là chịu khó trong làm ăn, quanh quẩn trong xóm làng, làm bạn với con trâu, đường cày, sá bừa, rất xa lạ với “cung ngựa trường nhung”:
“Nhớ linh xưa:
Côi cút làm ăn; toan lo nghèo khó
Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”.
Họ là lớp người đông đảo, sống gần fũi quanh ta. Quanh năm chân lấm tay bùn với nghề nông, “chưa hề ngó tới” việc binh và vũ khí đánh giặc:
“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”.
Thế nhưng khi đất nước quê hương bị giặc Pháp xâm lược, những “dân ấp, dân lân” ấy đã đứng lên “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Đánh giặc cứu nước cứu nhà, bảo vệ “bát cơm manh áo ở đời” là cái nghĩa lớn mà họ “mến” là đeo đuổi. Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những câu cách cú hay nhất (giản dị mà chắc nịch) ca ngợi long yêu nước, căm thù giặc của người nghĩa sĩ:
“Bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới an gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”.
Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có 1 thái độ: “ăn gan” và “cắn cổ”, chỉ có 1 chí hướng: “phen này xin ra sức đoạn kình…, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
Hình ảnh người chiến sĩ nghĩa quân ra trận là những nét vẽ, nét khắc hùng tráng nhất, hoành tráng nhất trong “tượng đài nghệ thuật” bài văn tế. Bức tượng đài có 2 nét vẽ tương phản đối lập: đoàn dũng sĩ của quê hương và giặc Pháp xâm lược. Giặc cướp được trang bị tối tân, có “tàu thiếc, tàu đồng”, “bắn đạn nhỏ, đạn to”, có bọn lính đánh thuê “mã tà, ma ní” thiện chiến. Trái lại, trang bị của nghĩa quân lại hết sức thô sơ. Quân trang chỉ là “1 manh áo vải” . Vũ khí chỉ có “một ngọn tầm vông”, hoặc “một lưỡi dao phay”, một súng hoả mai khai hoả “bằng rơm con cúi”. Thế mà họ vẫn lập được chiến công: “đốt xong nhà dạy đạo kia” và “chém rớt đầu quan hai nọ”.
“Tượng đài nghệ thuật” đã tái hiện lại những giờ phút giao tranh ác liệt của các chiến sĩ nghĩa quân với giặc Pháp:
“Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho ma ní, mã tà hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ”.
Đây là những câu gối hạc tuyệt bút. Không khí chiến trận có tiếng trống thúc quân giục giã, “có bọn hè trước, lũ ó sau” vang dậy đất trời cùng tiếng súng nổ. Các nghĩa sĩ của ta coi cái chết như không, tấn công như vũ bão, tung hoành giữa đồn giặc: “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược”, “hè trước, ó sau”… Giọng văn hùng tráng, phép đối tài tình, các động từ mạnh được chọn lọc và đặt đúng chỗ… đã tô đậm tinh thần quả cảm, vô song của các nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nguyễn Đình Chiểu đã dành cho các chiến sĩ nghĩa quân những tình cảm đẹp nhất: ngợi ca, khâm phục, tự hào. Qua đó, ta thấy, trước Nguyễn Đình Chiểu chưa có nhà thơ nào văn nào viết về người nông dân đánh giặc hay và sâu sắc như thế.
Trong bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” còn có những giọt lệ, lời than khóc, một âm điệu thông thiết, bi ai được thể hiện ở phần ai vãn. Nhiều nghĩa sĩ đã ngã xuống trên chiến trường trong tư thế người anh hùng: “Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ” Đất nước, quê hương vô cùng thương tiếc. Một không gian rông lớn bùi ngùi, đau đớn:
“Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ 2 hàng kuỵ nhỏ”.
Tiếng khóc của người mẹ già, nỗi đau đớn của người vợ trẻ được nói đến vô cùng xúc động. “Hàng trăm năm sau, chúng ta đọc Nguyễn Đình Chiểu có lúc như vẫn còn thấy ngòi bút của nhà thơ nức nở trên từng trang giấy” (Hoài Thanh):
“Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bòn xế dật dờ trước ngõ”.
Các nghĩa sĩ đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Tấm gương chiến đấu và hi sinh của họ là “tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm”, đời đời bất diệt, sáng rực mãi, trường tồn cùng sông núi. Rất đáng tự hào:
“Ôi! Một trận khói tan; nghìn năm tiết rỡ”
Bài học lớn nhất của người nghĩa sĩ để lại cho đất nước và nhân dân là bài học về sống và chết. Sống hiên ngang. Chết bất khuất. Tâm thế ấy đã tô đậm chất bi tráng cho “tượng đài nghệ thuật” về người nông dân đánh giặc:
“Sống đánh giặc, thác cũng đánh giăc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;…”.
Dám xả thân vì nghĩa lớn, “cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm”, các chiến sĩ nghĩa quân trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là niềm tự hào và biết ơn sâu sắc của nhân dân ta.
Tóm lại, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” khẳng định văn chương lỗi lạc, tấm lòng yêu thương dân mãnh liệt, thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu. Đúng là “người thư sinh dùng bút đánh giặc” (Miên Thẩm). Một giọng văn vừa hùng tráng, vừa thống thiết, bi ai. Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên một “tượng đài nghệ thuật” mang tính chất bi tráng về người nông dân yêu nước chống giặc ngoại xâm. “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một kiệt tác trong văn tế cổ kim của dân tộc. Nhà văn Hoài Thanh có viết: “Nhà nho nghèo ấy đã sống cuộc sống của quần chúng, và đã đi cùng quần chúng phấn đấu gian nan. Chính quần chúng cũng cần cù, dũng cảm đã tiếp sức cho Nguyễn Đình Chiểu, cho trí tuệ , cho tình cảm, cho lòng tin và cả cho nghệ thuật của Nguyên Đình Chiểu”
Nghệ thuật thể hiện
Bài văn tế này bằng chữ Nôm, gồm 30 liên, tức 60 vế đối biền ngẫu, làm theo thể phú luật Đường luật, có vần, có đối.
Toàn bài mang tính chất trầm hùng, bi thiết, có sức cổ vũ lớn. Cái đặc sắc, kỳ thú ở bài văn là dùng nhiều ngôn ngữ và chi tiết bình thường, quen thuộc trong đời sống hàng ngày mà dựng lên được hình ảnh rất sống của thế hệ những người chống Pháp tiêu biểu buổi ấy...
Nói khác hơn, bài văn là một thành tựu xuất sắc về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và tính hiện thực. Ngôn ngữ thì bình dị, mộc mạc, giàu lời ăn tiếng nói thân thuộc của nhân dân, đặc biệt là bản sắc địa phương Nam Bộ[2].
Trích vài nhận xét
Phạm Văn Đồng:
Ngòi bút, nghĩa là tâm hồn trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu đã diễn tả thật là sinh động và não nùng, cảm tình của dân tộc đối với người chiến sĩ, vốn là người nông dân, xưa kia chỉ quen cày cuốc, bỗng chốc trở thành người anh hùng cứu nước... Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca của người anh hùng thất thế, nhưng vẫn hiên ngang...[3]
Với bài văn tế này, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, nhân dân được ca ngợi như những người anh hùng. Đây chính là đỉnh cao nhất về nội dung và nghệ thuật trong sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu...[4]
Kết lại, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tác phẩm xúc động nhất về người anh hùng nông dân Nam Bộ. Đó là những người quanh năm nghèo khó, chưa từng cầm vũ khí, nhưng khi quân Pháp đến thì xông lên chiến đấu quên mình, biểu thị tinh thần dũng mãnh bất khuất, tiêu biểu cho ý chí độc lập, tự do của dân tộc. Bài văn không chỉ là một thiên anh hùng ca đặc sắc, mà còn là lời bộc bạch gan ruột của những người dân không chịu làm nô lệ, thề đánh quân xâm lược đến cùng, là lời trách móc thâm trầm đối với thái độ đầu hàng... Bởi vậy, khi bài văn tế này lan truyền đến Huế, chính vua Tự Đức đã ra lệnh phổ biến trong nhiều địa phương khác. Nhà thơ Miên Thẩm Tùng Thiện Vương và Mai Am nữ sĩ đã có thơ ca ngợi, là: “thư sinh giết giặc bằng ngòi bút” (Tùng Thiện Vương), là “Quốc ngữ một thiên truyền mãi mãi” (Mai Am)...[5]
Ngay cả những nhà phê bình già dặn, sự thận trọng vẫn đòi hỏi họ lấy môi trường cuộc sống và thời gian trên mỗi tác phẩm để nhìn nhận một phần giá trị không chối cãi được của tác phẩm đó. Nói thế để thấy cuộc sống làm nên văn chương. Cuộc sống ở đây được hiểu là môi trường sống cùng thời và đời sống nội tâm, tư duy của nhà văn trong hoạt động sáng tạo của mình.
Vì thế, chất sống trong tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc chính là sự thật cuộc sống xảy ra vào thời của cụ Nguyễn Đình Chiểu. Trang văn của cụ đã nói lên những gì cụ muốn gửi gắm lại thế hệ mai sau. Do đó, đọc Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trước hết, là để cảm nhận văn chương của Nguyễn Đình Chiểu, và sau đó thì nội dung cuộc sống trong văn chương của cụ có được cảm nhận hay không, cảm nhận như thế nào, tùy vào khả năng của những người thời nay đọc văn cụ.
"Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng" và "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu làm chúng ta nhớ bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Hai bài văn: hai cảnh ngộ, hai thời buổi, nhưng một dân tộc. Hịch của Nguyễn Trãi là khúc ca khải hoàn, ca ngợi những chiến công oanh liệt chưa từng thấy, biểu dương chiến thắng làm rạng rỡ nước nhà. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộclà khúc ca của người anh hùng thất thế, nhưng vẫn hiên ngang...
PHẠM VĂN ĐỒNG
Văn tế dùng cho những người đáng kính trọng. Người viết văn tế luôn tự coi mình thấp hơn nhân vật trong bài văn. Cách hiểu này đã xem sự ra đời bàiVăn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là phá cách: Cụ đồ viết văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - một loại nhân vật bấy lâu vẫn được xếp sau tầng lớp trí thức, sĩ phu trong thứ hạng tứ dân (sĩ – nông – công - thương).
Quy định của bài văn tế là phải thể hiện được lý do đáng kính trọng của cái chết (có như thế mới được tế). Và nhân vật chính trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc có một lý rất đặc biệt: sự bột phát của người nông dân nổi dậy chống Pháp, hy sinh bởi một trận đánh được cụ Đồ gọi là “trận nghĩa”:
Mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc còn danh nổi tợ phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ.
Cụ Đồ Chiểu so sánh mười năm vỡ ruộng với một trận đánh Tây hẳn là còn khập khiễng. Nhưng đó là điều mà tác giả muốn đặt ra để thấy sự khác biệt giữa cái nhóm nghĩa sĩ Cần Giuộc này với những nhà nông lúc ấy: Trong khi tất cả nông dân khác đang vỡ ruộng, thì đây là cái chết của một nhóm người dám đứng dậy đánh Tây. Đặt sự so sánh giữa vỡ ruộng và đánh Tây hợp với phép đối trong văn biền ngẫu cũng là nhằm đánh dấu sự chuyển biến về tư tưởng của người nông dân.
Thực ra, hành động của người nghĩa quân Cần Giuộc bột phát bởi lý do bị dồn nén trong tâm trạng người dân mất nước. Sống cùng thời, cụ Đồ Chiểu cảm được cái tâm lý: Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ. Cái nhìn của người bản xứ đối với ngoại xâm hết sức bình thường như thế đó, mà lại rất có quan điểm của con dân yêu nước: Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta; Bát cơm manh áo nợ đời, mắc mớ chi ông cha nó.
Nhưng nếu vì tức giận ngoại xâm mà bột phát đứng lên chống giặc, hẳn những nghĩa quân Cần Giuộc chưa đánh động mãnh liệt đến niềm cảm kích của Nguyễn Đình Chiểu. Điều quan trọng hơn là hành động của những nghĩa quân. Họ vốn là nông dân, là những người bình dị, nhưng nghĩa khí trong từng con người đã khiến cho cụ Đồ Chiểu phải đặt bút viết rằng:
Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ, hay Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư, không chờ bày bố…
Trong khi có những người vì hèn nhát mà trốn lính, thì nghĩa quân Cần Giuộc đáng kính trọng chứ. Trong khi binh mã triều đình khiếp nhược trước ngoại xâm, những người “tay ngang” ở miệt Cần Giuộc dám đứng lên dùng dao phay, con cúi, hỏa mai để đánh Tây. Hành động ấy, nhân cách ấy đáng trọng lắm chứ.
Bởi thế, cụ Đồ Chiểu mới làm văn tế. Bởi thế, bài văn tế mới được cụ dồn tâm lực trau chuốt công phu, để cho người đời sau đọc lên còn thấy hay, còn thuộc.
Nhưng không ai khen kẻ bột phát làm càn, lịch sử và lòng người trân trọng những hành động quyết liệt mà hiệu quả:
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.
Ba cặp câu văn biền ngẫu trên, cụ Đồ Chiểu rất kiệm lời mà tái hiện được quang cảnh chiến trận của nghĩa quân, kết quả, sự hy sinh, tác động nhất định của trận khởi nghĩa bột phát này đối với lực lượng ngoại xâm hùng mạnh lúc đó. Đâu phải dễ dàng làm cho “mã tà, ma ní hồn kinh”. Cũng đâu phải chỉ với vũ khí thô sơ kia (vốn là công cụ nhà nông) mà chém quan hai, xem thường tàu thiếc tàu đồng.
Khí phách của nghĩa quân, tinh thần chiến đấu của nghĩa quân phải quyết liệt lắm, dũng cảm lắm mới lập nên kỳ tích như vậy. Trong khi triều đình lánh mặt, trông tin quan như trời hạn trông mưa, thì nhân dân vùng lên bột phát, không có chỉ huy, không quen trận mạc nên chắc chắn sẽ thất bại, nhưng hành động ấy lẫm liệt, chiến công ấy đáng kể, và những người nông dân “không chịu vỡ ruộng” ấy đáng được viết văn tế, ghi lại công trạng và niềm tiếc thương kính phục cho muôn đời sau.
Tôi cứ nghĩ chắc bởi tại thể loại văn tế buộc phải có một đoạn tả về những người đang sống tiếc thương người đã khuất, nên cụ Đồ Chiểu mới phải nói ra cái đoạn sầu bi sau trận chiến:Đau đớn bấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay, vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Tại sao người nông dân lại không cam tâm làm nghề “vỡ ruộng”, mà bột phát làm gì cho đau khổ người thân như vậy, có thể hỏi thế được chăng? Có thể đem chuyện Tôn Thọ Tường lúc bấy giờ ra cộng sự với Pháp để vinh thân phì gia làm tấm gương được chăng?
Tôi vẫn nghĩ rằng: dòng máu bao thế hệ người Việt vẫn là dòng máu trung kiên, không chấp nhận thói phản trắc, ăn ở hai lòng. Cho nên, dẫu triều đình lúc ấy cam tâm “đổi đất lấy yên thân” bằng cách cắt cho Pháp cả vùng Nam kỳ lục tỉnh, thì người dân vẫn còn đó dòng máu trung kiên, chính trực.
Dòng máu đó biết sôi lên đúng lúc, nó khiến cho những người nông dân không còn là những thân phận “mười năm vỡ ruộng” nữa, họ đã thoát xác, hóa thân thành những anh hùng dân tộc, bằng những hành động không thể dùng kiến thức, kinh nghiệm trận mạc, hay một thứ lập ngôn chủ nghĩa nào đo được.
Bởi thế, nên cụ Nguyễn Đình Chiểu đã dùng thiên kiến chủ quan của mình để nhận định:
Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương; vì ai xui đồn lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió.
Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Có những cái chết vinh, cũng có những sự chọn lựa sống nhục. Thái độ sống ấy bao giờ cũng thời sự, và cũng không phải lúc nào, với ai, cũng chọn lựa được một thái độ sống vinh nhục rõ ràng. Bởi thế mà nghĩa quân Cần Giuộc được mọi người nhớ mãi. Cụ Đồ Chiểu nói lên tiếng nói thương kính người nghĩa sĩ, nhưng cũng là thể hiện thái độ của mình. Có khi, vào những thời điểm, một tiếng nói đúng đắn của mình cũng lưu danh muôn thuở.
Văn chương yêu nước mỗi thời kỳ có những tầng ý nghĩa riêng và sự sâu sắc tùy thuộc vào tác giả. Nguyễn Đình Chiểu viết Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc nhưng tâm sự đâu chỉ gói gọn trong một bài văn. Thái độ sống và lòng nghĩa khí, nung đúc dòng máu trung kiên hay chấp nhận thói sống đớn hèn là những lựa chọn vượt thời gian, luôn cần thiết cho mọi con người có ý thức rằng mình sẽ sống tốt.
Phân tích hình tượng người nghĩa sĩ trong bài thơ.
Thế kỉ XIX là thờ; kì lịch Sử đau thương nhưng vĩ đại 1 của dân tộc ta. ờ thế kỉ ấy, có một nhà thơ mù nhưng tấm lòng sáng như gương, người đã thấy hết những gì mà bao nhiêu người mắt sáng không nhận ra, người đó là nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Và, trong văn học Việt Nam, cho đến Nguyễn Đình Chiểu, chưa có một hình tượng nhân dân nào chân thực và cảm động hơn người nghĩa sĩ trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của ông.
Nói đúng ra, trước Nguyễn Đình Chiểu, con người bình thường cũng xuất hiện trong văn chương Việt Nam. Tuy nhiên, đó hoặc là những ngư phủ, tiều phu hình bóng thấp thoáng, khi xa khi gần
trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, hoặc là đám đông lố nhố, hằng ngày là cục đất củ khoai, khi có dịp trở nên những "kiêu binh" lỗ mãng trong Hoàng Lê nhất thống chí.
Người nông dân xuất hiện trong tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu hoàn toàn khác hẳn. Họ thật sự là những người bình thường, là dân ấp, dân lân, ngoài cật có một manh áo vải. Bản tính lại hiền
lành, chất phác, quanh năm suốt tháng côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó. Bên trong luỹ tre làng, 'họ chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ, thành thục với nghề nông trang: Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm. Nói như nhà thơ Thanh Thảo sau này, "họ lấm lấp sình lầy ấy đã bước vào thơ Đồ Chiểu. Đành rằng nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã có tâm lòng sáng để phát hiện ra họ, nhưng trước hết bởi dù không áo mão cân đai phẩm hàm văn võ họ vẫn để lại những vệt bùn làm vinh dự cho thơ . Đó chính là
tấm lòng yêu nước, trọng nghĩa của người nông dân. Khi nghe tin quân giặc đến, dù là dân thường nhưng những người nông dân vẫn lòng đầy sốt ruột. Trong xã hội xưa, những chuyện quốc gia đại sự trước hết là việc ' của quan. Dân nghe theo quan mà làm. Dân nhìn thấy quan mà theo. Vì thế, họ trông chờ tin quan như trời hạn trông mưa. Mắt còn trông đợi nhưng lòng thì đã rõ: Bữa thấy bông bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ. Lòng yêu nước không độc quyến của ai. Huống chi, với những người nông dân chân chất, khi mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm thì họ ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ. Vì thế, dù là dân ấp,dân lân, trong tay chỉ còn một tầm vông, họ đã sẵn sàng xả thân
vì nghĩa cả: Hỏa mai đánh bàng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia, gươm đeo dùng bàng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ. Chi nhọc nhằn quan quan gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tớicoi giặc như không, nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to xô cửa xông vào, liều mình như chằng có. Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt. tàu đồng súng nổ. Cuộc đối đầu một mất một còn giữa những người nông dân yêu nước với kẻ thù là cuộc đối đầu không cân sức. Họ thất thế ngay từ ban đầu khi tự giác đứng lên, không có ai tổ chức (ai đòi, ai bắt),
chẳng có binh thư, binh pháp. Còn quân giặc thì chuẩn bị bài bản, có quy mô, quy củ. Họ thất thế khi xung trận mà ngoài cật có một manh áo vải, trong tay cầm ngọn tầm vông, còn kẻ thù lại có tàu
sất tàu đồng, đạn nhỏ, đạn to. Song chí căm thù, lòng yêu nước đã khiến những người nông dân trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ, liều mình như chẳng có ai. Ai cũng biết cái giá cuối cùng của hành động ấy Những nghĩa sĩ nông dân càng biết rõ điều đô: Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ. Những nghĩa sĩ nông dân trở thành :những anh hùng thất thếnhưng vẫn hiên ngang" (Phạm Văn Đồng). Hình tượng người nghĩa
sĩ chân đất lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Việt Nam đã mang hình dáng đầy bi tráng. Nó như một tượng dài sừng sững tạc vào không gian lẫn với thời gian để nói với muôn đời rằng: Thác mà trả
nước non rồi nở, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ. Sự gắn bó, lòng yêu thương và cảm phục đã khiến Nguyễn Đình
Chiểu ghi tạc vào thơ văn mình hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc thật bi tráng. Hình tượng ấy mang sức nặng của một thời đại "nước ắt anh hùng lau chẳng ráo" và tấm lòng yêu thương bi thiết của nhà
thơ mù đất Đồng Nai - Gia Định. Những người anh hùng "sống đánh iặc, thác cũng đánh giặc". Còn nhà thơ của họ đã dựng lại tượng đài "nghìn năm" trong kí ức tâm hồn của người đời bằng văn chương
Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc : Bức tượng đài của dân tộc
Nguyễn Đình Chiểu một nhà thơ lớn của nước ta, một ngôi sao sáng trên bầu trời văn nghệ dân tộc. Xuất thân từ một gia đình quan lại nhỏ ở đất Gia Định. Nguyễn Đình Chiểu lớn lên và trưởng thành vào giữa thế kỷ XIX, lúc triều đình phong kiến nhà Nguyễn đang suy vong và thực dân Pháp bước đầu xâm lược Việt Nam.
Đã gần 2 thế kỷ qua đi, nhắc về ông, chúng ta không những nhớ đến tác phẩm nổi tiếng “Lục Vân Tiên”, mà còn khâm phục ông với tư cách là một sĩ phu yêu nước. Khác với những sĩ phu đương thời, ông dùng ngòi bút viết nên những khúc ca bi tráng ca ngợi những con người đã xả thân vì nghĩa rồi hy sinh oanh liệt. Hàng loạt các bài: Hịch, điếu, văn tế một lần nữa lại tỏa sáng: Văn tế Trương Định - Điếu Phan Tòng - Văn tế sĩ dân lục tỉnh trận vong - Hịch đánh Tây và “Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc”.
Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc là khúc ca hùng tráng, tạo nên một cơn sóng ngầm mãnh liệt, thúc đẩy phong trào chống Pháp ngay từ khi chúng vừa đặt chân xâm lược nước ta. Mở đầu bài văn tế sao mà “đau thương nhưng anh dũng”:
“Hỡi ơi! / Súng giặc đất rền / Lòng dân trời tỏ...”
Trước hết đây là tiếng khóc: khóc cho đất nước, cho nhân dân, cho đời “trong cơn bấn loạn”, khóc cho vong linh của những nghĩa sĩ Cần Giuộc đã anh dũng hy sinh vì vận mệnh của Tổ quốc. Tiếng khóc cao cả và trân trọng biết bao.
Nước đã mất thì nhà tan, tội ác của quân xâm lược “Trời không dung, đất không tha”, những hình ảnh thật điêu linh: “Bến Nghé của tiền tan bọt nước / Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”.
Hy sinh cho người khác, hành động vì nghĩa, Nguyễn Đình Chiểu đã vượt khỏi tư tưởng của một đồ đệ Cửa Khổng Sân Trình - một tư tưởng tiến bộ của một nhà nho yêu nước. Ông quan tâm đến những người dân đen, chú ý đến cái lòng của họ rồi khẳng định: Hành động của họ được trời thấu rõ. Lời văn điếu phúng đã giới thiệu về những nghĩa sĩ: “Mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc đã còn mà danh nổi như phao / Một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất mà tiếng vang như mõ”.
Hành động đánh Tây của họ, chính là hành động vì nghĩa, là một hành động cao cả. Có nhiều lúc phải trả giá bằng chính bản thân mình. Đến đây hình tượng người nông dân - những nghĩa sĩ Cần Giuộc được tác giả khắc họa. Đây là lần đầu tiên người nông dân có tên trong danh mục của văn chương đất Việt với tư cách đường hoàng, mang tầm vóc và vẻ đẹp có thực của một giai cấp, một kiếp người bị lãng quên trong lịch sử... Bởi cuộc sống nhỏ lẻ, đời tiếp đời nối cái nghèo khó để tồn tại: “Nhớ linh xưa / Côi cút làm ăn / Toan lo nghèo khó / Chưa quen cung ngựa... chỉ biết ruộng trâu ở theo làng bộ” họ là những “dân ấp, dân lân” - lam lũ quẩn quanh sau lũy tre làng.
Đất nước bị xâm lược, triều đình nhà Nguyễn yếu hèn đã án binh bất động: “Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa”. Thì chính những người dân bình thường ấy, chứ không phải triều đình, không phải nhà vua nữa, họ đã là sức mạnh để cứu nước. Như một phản ứng tất yếu, lòng căm thù giặc cao độ, đã làm nảy sinh một khát vọng cao độ - khát vọng đánh giặc hoàn toàn tự nguyện - “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”: “Nào ai đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình / Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”. Trái tim của những người nông dân Cần Giuộc đã bốc lửa - lửa căm thù giặc: “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan / Ngày xem ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cổ”.
Thực ra, hành động của họ cũng không phải hoàn toàn tự phát, mà trong tâm hồn họ có những nghĩ suy đến vận mệnh của quốc gia: “Một mối sa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu / Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó”. Họ đã như người dân quê mộc mạc bình dị, bản chất ấy của họ vẫn không thay đổi trong cả những khi xung trận. Họ đánh giặc bằng những gì mà họ có trong cuộc sống sinh hoạt và lao động hàng ngày: “Manh áo vải” - vẫn mặc, với “ngọn tầm vông”, “rơm con cúi” thường ngày mang ra đồng đốt cỏ và với “lưỡi dao phay” thường ngày dùng để chặt cây, bổ củi, thái rau những tấm lòng mến nghĩa cao cả đã khiến họ làm được những việc “kinh thiên động địa”: “Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dậy đạo kia / Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ”. Nguyễn Đình Chiểu bằng ngôn ngữ, hình ảnh đậm đà chất Nam bộ, đã xây dựng được hình tượng người nông dân nói chung, người nghĩa sĩ Cần Giuộc nói riêng bừng bừng một khí thế xung trận. Quần chúng nổi dậy như vũ bão: “...Đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không / Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có / Kẻ đâm ngang, người chém ngược làm cho mã tà ma ní hồn kinh”. Hàng loạt những động từ liên tiếp nhau, nhịp thơ ngắn, mạnh mẽ, tác giả miêu tả cuộc hỗn chiến với khí thế xung thiên, xung trận ào ào như thác đổ của nghĩa quân Cần Giuộc thật oai phong và lẫm liệt làm cho trời thảm, quỷ sầu.
Âm điệu thơ như những trận sóng lừng xô bờ, bỗng dưng lắng xuống, chìm sâu vào đất trời: “Một giấc sa trường rằng chữ “hạnh”, nào ai da ngựa bọc thây / Trăm năm âm phủ ấy chữ “quy” nào đợi gươm hùm treo mộ / Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng / Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ”.
Nguyễn Đình Chiểu đã nhân danh lịch sử mà cất tiếng khóc cho những người nông dân - “Nghĩa sĩ Cần Giuộc” - họ đứng trên triều đại, đã làm nên lịch sử. Họ hy sinh vì non sông vì dân tộc, cái chết cao đẹp của họ đã đi vào vĩnh cửu. Cái chết của họ đã nhuộm đau thương, tang tóc trùm lên vạn vật.
Lời văn đang đắm chìm trong thảm đạm, bỗng sáng hẳn lên - một nhân sinh quan tiến bộ đã kế thừa và vượt lên thời đại tác giả: “Sống làm chi theo quân tà đạo, quăng bùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn / Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì nghe càng thêm hổ / Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo Tổ phụ cũng vinh, hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ”. Lời văn lại chuyển sang một đợt sóng khác trầm hơn, sâu hơn. Có thể nói, Nguyễn Đình Chiểu dùng thể loại phú Đường luật (phú cận thể) với lời văn ảo não khiến người nghe đều thương tâm nhỏ lệ: “Chùa Tân Thạnh năm canh ưng đóng lại, tấm lòng son giữ lại bóng trăng rằm / Đồn La Sa, một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ / Đau đớn thay mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều / Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”. Lời văn tế khiến ta ngậm ngùi - đau xót - thấu hiểu sâu sắc hơn sự hy sinh của những nghĩa sĩ Cần Giuộc. Họ ra đi còn để lại sau đời mình: “Mẹ già”, “vợ yếu”, để “Bến Nghé”, “Đồng Nai” còn “bốn phía mây đen”. Tuy vậy những người nghĩa sĩ Cần Giuộc là những con người: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc” để “danh thơm đồn sáu tỉnh chúng còn khen”.
Với lòng yêu mến và kính phục, Nguyễn Đình Chiểu đã tạc lên một bức tượng đài của người nông dân. Nhưng đây không phải tượng đài của một người, mà của nhiều người, của một tập thể anh hùng - “Nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Bức tượng đài của ông chỉ có một tên gọi chung là “Nghĩa sĩ Cần Giuộc”, còn mỗi người ở đó đều là vô danh. Họ đã sống những cuộc đời của quần chúng vô danh, chết cái chết của quần chúng vô danh. Cái điều duy nhất họ gửi lại cho đời mà tác giả ghi bên dưới bức tượng đài ấy là “chết vinh hơn sống nhục”.
Cuộc tấn công của những nghĩa sĩ Cần Giuộc vào đồn Cần Giuộc của thực dân Pháp năm 1863 là cuộc tấn công đầu tiên của quân và dân Việt Nam mở đầu cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Hiệu quả thực sự mà do họ tạo nên cho cuộc kháng chiến, cho lịch sử dân tộc là lòng yêu nước tha thiết, tinh thần sẵn sàng chiến đấu, dũng cảm hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc. Họ trở thành tấm gương sáng cho các thế hệ sau noi theo. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Đình Chiểu, tiêu biểu nhất cho văn thơ yêu nước hồi cuối thế kỷ XIX của dân tộc - một tác gia thể hiện được tiết tháo của trí thức phong kiến, mà hơn nữa còn thể hiện được cả phí khách của người nông dân, của nhân dân lao động trong cuộc chiến đấu với quân thù. Ngôn ngữ văn học của Nguyễn Đình Chiểu có cái chất hồn nhiên, gân guốc của ngôn ngữ dân gian, đậm nét Nam bộ và khi cần thì lại có hình tượng sinh động, nhịp điệu hào hùng đã chiếm được tình cảm của người đọc.
Có người nói: “Văn học là tấm gương phản chiếu trung thực và đầy đủ cuộc sống về mọi khía cạnh, vật chất và tinh thần, những ý nghĩ tình cảm và mơ ước là hơi thở và nhịp điệu của con tim... Dù theo thể loại nào, một công trình sáng tác văn học có giá trị nếu nó phát ra được bức tranh làm rung động tâm hồn, truyền cho người xem tranh một sự thông cảm đối với cái đáng kính, đáng yêu, đáng khích lệ, cũng như một lòng phẫn nộ căm ghét đối với những điều bất công tàn bạo phi đạo lý. Từ một nhân vật, một sự kiện, một thói đời, một cảm nghĩ lấy ra từ thực tế, nhà văn có thể xây nên một công trình lỗi lạc, bất hủ...”. Bài “Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một tượng đài nghệ thuật vinh dự được xếp hàng trong danh mục các công trình nghệ thuật ấy của dân tộc.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đánh giá bài “Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc”: Ông đặt bài văn này ngang hàng với bài “Cáo Bình Ngô” của Nguyễn Trãi: “Một bên là bài ca về người anh hùng chiến thắng, một bên là bài ca về người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang”.
Đánh giá về tác giả, cố Thủ tướng viết: “Nguyễn Đình Chiểu là ngôi sao càng nhìn càng sáng” trên bầu trời văn học của đất nước.
Dân tộc Việt Nam đã trải qua bốn nghìn năm với bao biến cố thăng trầm của lịch sử. Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, người nông dân cũng đứng lên chống giắc. Trong văn học, phải đến thế kỉ XIX khi Nguyễn Đình Chiểu - một nhà nho yêu nước dùng con mắg yêu thương và kính phục để viết nên “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” thì hình ảnh người nông dân mới thực sự xuất hiện. Đó là hình tượng đẹp, rất đỗi chân thực và đầy chất bi tráng, vừa hào hùng, vừa đau thương trong cuộc chiến đấu giành độc lập, tự do của đất nước.
Những người nông dân ấy, họ sinh ra đâu phải để làm chàng Gióng Phù Đổng, Lê Lợi, Quang Trung… Họ chỉ là những con người quanh năm khoác trên mình màu áo nâu của đất, bình dị và lam lũ. Nhưng họ xuất hiện trong khung cảnh bão táp của thời đại:
Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ
Họ đâu đã quen nghi tiếng súng. Âm thanh ấy đã phá tan cuộc sống bình lặng của họ. Một cuộc sống từ sáng đến tối bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, một cuộc sống chật vật với những lo toan nghèo khó. Cái nghèo đã làm họ thật nhỏ bé suốt ngày “cui cút làm ăn”.. Chỉ một câu văn, cụ Đồ Chiểu đã vẽ nên vòng đời luẩn quẩn không lối thoát của người dân Việt, người “dân ấp dân lân” Nam Bộ, bắt đầu với cui cút, vật lộn làm ăn để cuối cùng vẫn kết thúc trong nghèo khó. Đằng sau luỹ tre làng ấy, họ biết sao được những “cung ngựa”, “trường nhung”.. trong cái nhìn của họ chỉ có “con trâu là đầu cơ nghiệp”. Đến việc cuốc, việc cày, bừa, khiên đã quá quen thuộc thì giờ tập khiên, tập súng.. thật lạ lẫm.
Những tưởng họ mãi cam chịu như thế. Nhưng không, khi quân xâm lược đã xâm chiếm đất nước, chúng đang giày xéo lên từng mảnh ruống, từng đám đất quê hương ruột thịt của họ. Giờ đây, trong những “lo toan” không chỉ có đói nghèo mà còn là những thấp thỏm, lo âu:
“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa…”
Thấy “mùi tinh chiên vấy vá” không thể chống mắt đứng nhìn, không thể ngồi yên mà đợi. Triều đình đã “bỏ rơi” họ, nhưng làm sao ngăn được tình yêu đất nước nồng nàn ở họ. Bọn xâm lăng kia đã cướp đi những gì máu thịt của họ, chúng phá vỡ giấc bình yêu nơi thôn quê, làm sao không căm cho được. Nỗi uất hận đển tột cùng ấy đã biến những con người nhỏ bé tầm thường thành chàng Gióng khổng lồ trong cổ tích. Khi Tổ quốc lầm than, họ không ngần ngại chung vai góp sức. Lòng yêu nước đã biến thành lòng căm thù giặc đến sôi sục:
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan.
Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắng đuổi hươu
Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó”
Lòng yêu Tổ quốc tha thiết xuất phát từ trái tim đã khiên họ trở nên đẹp đẽ, lấp lánh… Dòng máu Lạc Hồng cuộn chảy trong người cùng với cơn giận của lòng yêu nước mạnh hơn yếu hèn, mạnh hơn cái chết. Khát vọng đánh giặc, khát vọng chiến đấu, khát vọng bảo vệ mảnh đất quê hương đã thôi thúc họ, mặc việc “đợi tập rèn”, “ban võ nghệ”, “bày bố binh thư”, không màng tới trên mình chỉ có “một manh áo vải”. Các chàng Gióng của thế kỉ XIX đã đến, “đạp rào lướt tới”, coi giặc cũng như không.
Hỡi ôi, “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có “lưỡi dao phay”, “rơm con cúi”, liệu có thể thắng được “tàu chiến tàu đồng”,” đạn nhỏ đạn to”. Đó là bi kịch của nghĩa sĩ Cần Giuộc hay chăng là tấn bi kịch của thời kì nghiệt ngã ấy. Họ là nông dân nhưng lại làm kinh ngạc cả chiến trường. Phải chăng cũng vì lẽ đó mà bản hùng ca đã cất lên trong tiếng nấc lòng. Có thể trận mạc đã vĩnh viễn cướp đi cuộc sống của họ, nhưng tinh thần xả thân vì nghĩa đã bù đắp cho sự thiếu hụt về lực lường, chênh lệch với kẻ thù
“Chi nhọc quan quản Gióng trống kì trống giục…. súng nổ”
Hình tượng của người nghĩa sĩ áo vải được khắc nổi trên cảnh u ám khói bom ấy: những âm thanh vang động (hè trước, ó sau…) những động tác quyết liệt (đốt, chém…). Những người nghĩa sĩ áo vải đã trở thành đấng anh hùng của một thời kì đáng nhớ. Trong tư thế quật cường ấy , lấp lánh chân dung của những con người gánh trên vai vận mệnh của non sông. Họ biết rằng mình chỉ là vô danh trong dân tộc anh hùng nhưng điều cao cả nhất họ để lại là triết lí sống phù hợp đến muôn đời:
“Thà thác mà đặng câu định khái, về theo tổ phụ cũng vinh, hơn còn mà c chịu chữ đầu Tây ở với man di rất khổ”
Tinh thần ấy, ý chí ấy vẫn chói lòa trong mỗi người dân Cần Giuộc. Sống để chịu nô lệ, tay sai của Tây thì thà một lần chiến đấu hết mình mà đem vinh quang cho dân tộc.
“Ôi thôi thôi!”
Một tiếng khóc đầy ai oán, tiếng khóc đến quặn lòng, tiếng khóc để tiễn biệt những người con Cần Giuộc mãi mãi nằm lại trên mảnh đất quê hương. Họ ngã xuống nới chiến trường khói lửa. Vẫn còn đó nghiệp nước chưa thành, thấp thoáng nơi đây bóng mẹ già với ngọn đèn le lói trong đêm
“Đau đơn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều! Vợ yếu chạy tìm chống, cơn bóng xế dật dờ trứơc ngõ”
Người tử sĩ đã về chốn thiên cổ để lại giữa trần gian mẹ già, vợ yếu, con thơ… Mai đây họ sẽ ra sao khi cái nghèo vẫn còn đeo đuổi, khi mà nợ nước trả chưa xong..
“Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo thương vì hai chữ thiên dân, cây hương nghĩa sĩ thắp đèn thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”
Nguyễn Đình Chiểu đã bằng tấm lòng đồng cảm để nhìn thấy, nghe thấy và dựng nên một tượng đài hoành tráng mà mộc mạc, yêu thương. Xuyên suốt trong nền văn học nước nhà hình ảnh người nông dân đã được đề cập khá nhiều lần. Nhưng trước Đồ Chiều thì chưa một ai công khai vẽ lên và ngợi ca hình ảnh người anh hùng “chẳng qua là dân ấp dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Hơn thế nữa, việc thổi vào văn chương chất dân gian đã khiến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của cụ trở thành áng văn vừa hào hùng, bi tráng mà cũng rất gần gũi, giản dị.
Cụ Đồ Chiểu chỉ là nhà thơ mù - “người hát rong của nhân dân”. Nhưng hình ảnh người nông dân khởi nghĩa trong bài văn tế đã cho ta cái nhìn về cả một thời đại. Tự hào thay những con người nhỏ bé nhưng vẫn hiên ngang trước thế lực bạo tàn. Tự hào thay những người dân, người lính, nghĩa sĩ vô danh trùng trùng điệp điệp ngã xuống để bảo vệ sự toàn vẹn cho non sống. Họ là bức tượng đài bất tử, lưu mãi tới muôn đời.
(Lê Thanh Trọng sưu tầm )