Diễn đàn lớp 11T2 THPT Đầm Dơi
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Diễn đàn lớp 11T2 THPT Đầm Dơi

Diễn đàn lớp 11T2 THPT Đầm Dơi
 
Trang ChínhTrang Chính  GalleryGallery  Tìm kiếmTìm kiếm  Latest imagesLatest images  Đăng kýĐăng ký  Đăng Nhập  

 

 hai đứa trẻ của thạch lam

Go down 
2 posters
Tác giảThông điệp
Admin
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 87
Points : 197
Join date : 15/08/2010
Age : 30
Đến từ : dam doi hight shool

hai đứa trẻ của thạch lam  Empty
Bài gửiTiêu đề: hai đứa trẻ của thạch lam    hai đứa trẻ của thạch lam  Empty21st November 2010, 5:36 pm

Tài liệu đã được hội chuẩn, các bạn cứ coppy và in ra dùng

Tác phẩm:“Hai đưa trẻ”,Thạch Lam

Văn học là nhân học” ( M.Gorki). Trong văn học, do vậy, vẻ đẹp nhân bản của con ngườI luôn luôn là một phương tiện thẩm mĩ mà ở đó chất thơ và chất hiện thực hoà quyện vớI nhau. Để làm rõ điều vừa nói, “hai đứa trẻ” của Thạch Lam sẽ là một dẫn chứng.
“ Hai đứa trẻ” vừa là bức tranh hiện thực phố huyện nghèo, vừa như một bài thơ trữ tình đặc sắc. Tác phẩm đã gieo vào lòng ngườI đọc một nỗI buồn bâng khuângday dứt về đờI sống con người.
Bức tranh hiện thực nơi phố huyện nghèo xơ xác và lạI càng xơ xác, tiêu điều hơn từ cái nhìn của nhà văn. Đó là lúc hoàng hôn của một ngày tàn nơi miền quê “mặt trờI đã lấp sau rặng tre, nhìn lên chỉ thấy khóm tre màu đen kịt trên nền trờI phớt hồng” dàn nhạc của ếch nhái bắt đầu văng vẳng kêu ngòi đồng, thế cũng đủ làm thành cái buổI chiều êm như ru như bao chiều khác.
Như một mô típ nghệ thuật, cái phố huyện hẻo lánh lạI hiện ra trong khung cảnh chợ vãn của buổI chiều chỉ còn lèo tèo vài ba ngườI bán hàng đang thu dọn gánh, vài đứa trẻ đi thu lượm các thứ lặt vặt… Cái bức tranh ấy đã một lần hiện lên trong “gió lạnh đầu mùa” nhưng sao nó vẫn nhuốm một nỗI buồn khó tả vào cái giờ khắc của ngày tàn trong “Hai đứa trẻ”.
Song bức trang phố huyện ấy không chỉ là cảnh vật mà là bức tranh cuộc sống của con người. Một hiện thực nơi miền quê hẻo lánh, một chút của chốn kinh thành được mang tớI từ con tàu đêm đêm. Cuộc sống phố huyện có gì? Đó là hoạt động kiếm sống của những ngườI mang trong mắt Liên dường như quá quen thuộc, mỗI ngườI đã có một thói quen. Như bác phở Siêu. chị Tí, bố con nhà hát sẩm, cụ Thi điên và ngay cả Liên. Việc chủ yếu cũng chỉ là nghe tiếng trống thu không thì đóng cửa quán mà đợI chờ. Hiện thực không làmta ngỡ ngàng đó là một phố huyện nghèo vớI những ngườI cần cù lao động một cách lầm lũi đáng thương.
Nhưng tất cả những hiện thực như thế đều đặt trong con mắt quan sát chất chứa trong chấ văn lãng mạn.ThờI gian đi vào cuộc sống của phố huyện “ rõ ràng” không vụt nhanh hoặc tan vào đêm tối. ThờI gian cứ chậm rãi đi từng bước phát triển của nộI tâm. Từ “tiếng trống thu không” đến một câu văn nhẹ nhàng : “Chiều, chiều rồI” cất lên trong lòng, rồI trờI nhá nhem tốI đến không gian đã khuya không còn những “tạp âm”, của ban ngày chỉ còn “vòm trờI vớI ngàn ngôi sao xanh ganh nhau lấp lánh”. MỗI thờI điểm lạI có một cái nhìn cảnh vật khác nhau nhưng đều có phần thi vị hoá nhờ những câu văn tươi mát, uyển chuyển.
Có buổI chiều nào êm như ru trong cách nhìn của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng? Chỉ cón tâm hồn lãng mạn Thạch Lam mớI có cái mượt mà đượm chất thơ như thế.
Sự tài tình chính là ở chổ nhà văn vừa hoà nhập hai tâm hồn quan sát là một. HIểu là nhà văn quan sát cũng đúng mà hiểu cảnh vật diễn ra trong mắt của nhân vật Liên cũng chẳng sai. Ta thấy rõ điều đó qua cái giật mình của nhân vật. “Liên mãi ngồI quên mất! Bây giờ Liên vộI vàng vào thắp đèn xếp những quả sơn đen lạI”.
“TrờI bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng gió mát”. Nhưng câu văn như vậy có rất nhiều và được dùng một cách chính xác đạt đến mẫu mực. PhảI chăng cảm nhận ấy xuất phát từ tâm hồn nhà văn hay chính là từ tâm hồn của Liên khi phố huyện đã chìm trong im lìm của vắng lặng. Trong con mắt “Dõi theo những bóng ngườI về muộn từ từ trong đêm”.
Nếu như đầu tốI phố huyện còn được “trang hoàng” bằng những ánh đèn hắt ra từ những quán bên đường thì bây giờ chỉ còn là bóng đêm. Một vài tia sáng le lói từ kẻ cửa thành từng vệt. Con mắt thơ mộng đâu chỉ dừng ở những ánh sáng rất thực mà tìm đến cái mong manh của thứ đom đóm lập loè trong kẽ lá bàng lạI càng gợI buồn khó tả. Ánh sáng hiếm hoi của thiên nhiên được nhà văn “ chớp” nhanh trong cái nhìn lãng mạn. Chất thơ chính là ở đó. Vừa có vài hiện thực vừa có sự bay bổng của ngườI bút phác lên và đằm lạI trên trang văn. Nhưng tất cả vẫn là cái thường nhật diễn ra trong cảnh sống vốn quẩn quanh lầm lũi.
Ánh đèn của chị Tí đủsoi một khoảnh nhỏ. Nếu quan sát từ xa, ta sẽ thấy một bức tranh khá hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật vớI hai “gam màu” sáng tối. Khuônmặt ngườI phụ nữ chân quê chất phát đã trảI qua một ngày bươn bảI vớI cuộc sống để kiếm cái ăn, manh áo. Cuộc sống gia đình bận rộn tốI tăm. Nhưng tốI nào chị cũng góp một ánh đèn như thế. Tuy để làm thêm thu nhập, nhưng hình như họ chỉ bán cho lấy lệ.
Vậy thì cái gì đã làm cho họ ra đây? PhảI chăng đó là nếp sống. Và phố huyện ban đêm là nơi để họ sống…Âm thanh của cuộc sống phát ra từ những lờI đốI thoạI, những hoạt động của con ngườI nơi đây. MỗI ngườI đều góp một thứ ánh sáng, một chút hương vị, âm thanh. Tất cả tạo nên một bức tranh phố nghèo.
Chẳng có một nét chấm phá nào trong bức tranh nhưng tất cả những con ngườI có mặt đã làm nên tổng thể củacảnh vật cuộc sống.
Nếu như ở Nam Cao là những cảnh sống hiện thực khốn khổ vớI nước mắt của đói, miếng ăn và áp bức thì cuộc sống hiện thực trong văn Thạch Lam được “đo bằng” một đơn vị “lãng mạn” nhất định. Nét bút của ông đã phát hoạ một cách rất nhẹ nhàng uyển chuyển. Phố huyện nghèo và cũng có rất nhiều lý do để ngườI dân phảI lao vào cuộc bon chen giành dật sự sinh tồn. Nhưng ở đây là một không khí chan hoà thực sự, ấm áp tình ngườI và mỗI ngườI khi ra về chắc chắn vẫn giữ được sự ấm áp quen thân dù rất buồn.
Sự hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn đã giúp Thạch Lam có được chất văn nhẹ nhàng thanh thoát, ẩn hiện nhân cách tyệt vờI của ông.
Trở lạI vớI cảnh sinh hoạt ban đêm nơi phố huyện, chất lãng mạn không dừng lạI ở cảnh bao quát mà đắm lạI ở những trang viết về chị em Liên. Đây chính lả điểm nhà văn đã tập trung khắc hoạ. Liên gây ấn tượng bởI nộI tâm sâu sắc, xuất phát từ một con ngườI đa cảm. Khi màn đêm đã bắt đầu buông xuống cũng chính là lúc Liên thấy lòng buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn. Cảm giác buồn ấy gợI lên từ cảnh phố huyện xơ xác buồn trong tiếng trống thu không vang vọng như hút hồn người. Bất giác, một cảnh tượng làm chị không khỏI chạnh niềm thương: đó là những chú bé nheo nhóc nhớn nhác giữa chợ đã vãng từ lâu để nhặt những mẫu que kem và những gì còn có ích cho chúng. Ấn tượng đầu tiên là Liên có một tấm lòng chẳng trẻ con chút nào. Tư thế của một ngườI chị còn bé hơn thế nữa, nỗI lòng buồn báo hiệu một sự “trưởng thành” về tâm sinh lí.
Bức tranh phồ huyện nghèo hẻo lánh, ẩn khuất trong bóng tốI hư vô của phố huyện. Cuộc sống phố huyện đã ăn sâu trong tâm trí Liên. Tưởng như nếu có thiếu một thứ gì của cảnh ngoài kìa, Liên đã thốt lên rồi. Nhưng tất cả vẫn thế, ngay cả tiếng cụ Thi đôi lúc làm cho Liên sợ. Nhưng cảm giác thân thuộc vẫn thấy cụ đáng yêu và đáng thương. Từng cảnh đờI, cảnh sống của mỗI ngườI lần lượt đi qua tâm hồn tưởng như non nớt của Liên.
Cuộc sống của từng ngườI đã góp nên thành cuộc sống của cả một quần thể ngườI dân quê nghèo khó. Từ những mảnh đờI cũng giống như Liên cùng chung môi trường sống , ta thấy một điểm chung rất rõ, đó là sự quanh quẩn chật hẹp của môi trường xã hội. Ngày lạI ngày vẫn chỉ là cái chợ tiêu điều, vài dãy hàng quán vớI những khoảnh đất trống “Lá đa lác đác trước lều” và những “con ngườI ấy” mà thôi.
Nhưng ở Liên lạI có một sự khác lạ mà trong số trên chẳng có ai. Một hành động tưởng như quái gở và vô nghĩa, đó là “đợI tàu”. Nếu mẹ Liên ở đó chắc không cho cô thức. Nhưng đó mớI chính là chiều sâu của tác phẩm khi tác giả khắc hoạ hình ảnh Liên cùng em đợI tàu vớI một niềm háo hức rất trẻ con.
Và con tàu đã đến đúng như sự mong mỏI, đợI chờ, như một thoáng niềm vui cũng chợt tắt. Tàu hôm nay không đông khách, ánh sáng của toa tàu cũng kém đi. Điều đó càng làm lòng Liên có một mỗI buồn vô hình xâm lấn. Con tàu vô cảm lầm lũi mang đến niềm vui duy nhất nhưng lạI chợt gợI thêm nỗI buồn khó tả. Tiếng rầm rầm của tàu đã lẩn khuất sau màn đêm dáy đặc, không gian của phố huyện thoáng giao động rồI lạI trở về như xưa. Tâm trạng của Liên bây giờ chẳng biết nên vui hay nên buồn. Vui có lẽ đúng hơn vì hàng ngày chuýên tàu vẫn là niềm mong mỏI của chị. Có ngườI nói “chờ đợI là một điều khủng khiếp”; song, không có gì để chờ đợI lạI càngkhủng khiếp hơn. VớI Liên điều khủng khiếp chính là niềm vui mà chị có thể tự tạo cho mình. Chất lãng mạn ngay trong cảnh đợI tàu. Cảnh đợI tàu ở đây tuy có khác vớI cảnh đợI tàu trên sân ga nhưng lạI vẫn chung một nỗI niềm mong mỏi. Điều đáng nói hơn là duy chỉ một cô bé Liên đợi. Cuộc sống bon chen đã không làm chị chìm trong cảnh đờI lầm lũi, thầm lặng. Vượt xa hơn là một tâm hồn khát khao niềm vui của cuộc sống. Tuy cuộc sống buồn nhưng vẫn tạo được nhiềm vui để mình sống có ý nghĩa hơn trong cõi đờI. quả thực, tâm hồn Liên là một bài thơ có cấu tứ khá hoàn chỉnh; nhưng đó là một sự thật hiển nhiên mà Thạch Lam đem lại. Cho đến nay, chị vẫn sống vớI một niềm vui của chuyến tàu đem lại. “Liên” là mảng màu chủ đạo tạo nên chất hiện thực và chất lãng mạn trong thiên truyện. tạo nên bằng một cuộc đời. tạo nên như là ngườI dẫn chuyện.
Thành công của thạch Lam chính là sự kết hợp hài hoà giữa bút pháp lãng mạn vớI xu hướng hiện thực, nhân đạo. Tạo cho mỗI tác phẩm của ông một sức sống trường tồn cùng lòng người. Tình ngườI của nhà văn vớI nhân vật đã đưa ý nghĩa truyện lên một tầng cao mới. Ai đó đã định nghĩa về thơ : “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đờI còn là thơ nữa” thì truyện ngắn “Hai đứa trẻ” và nhiều thiên truyện khác nữa của thạch lam có đầy đủ những yếu tố mang phong vị của một bài thơ trữ tình đặc sắc mà lạI “cuộc đờI” thật nhiều sâu sắc.

Bài 2

Trên văn đàn văn học Việt Nam trước cách mạng tháng tám, Thạch Lam chưa được xếp ở vị trí số một nhưng cũng là một tên tuổI rất đáng coi trọng và khẳng định, Thạch Lam tuy có viết truyện dài nhưng sở trường của ông là truyện ngắn, bởI ở đó tài năng nghệ thuật được bộc lộ một cách trọn vẹn, tài hoa. Nguyễn Tuân viết : “Nói đến Thạch Lam ngườI ta vẫn nhớ đến truyện ngắn nhiều hơn là truyện dài”. Đóng góp của Thạch Lam không chỉ ở nghệ thuật mà nó còn giúp ta thanh lọc tâm hồn : “ MỗI truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương” . Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam cũng là “một bài thơ trữ tình đầy xót thương” như thế . Thạch Lam tuy có chân trong Tự lực Văn đoàn nhưng tư tưởng thẩm mĩ lạI theo một hướng riêng. Ông xây dựng cho mình một thế giớI nhân vật khác. Ông lặng lẽ hướng ngòi bút của mình về phía những ngườI nghèo khổ vớI tấm lòng trắc ẩn chân thành? ( Phong Lê ). Thế giớI nhân vật là những lớp ngườI nghèo khổ cơ cực bế tắc nói chung, những nhân vật của Thạch Lam thật nhỏ bé và tộI nghiệp: Họ thường nép mình trong bóng tốI của một không gian hẹp thường là nơi phố huyện tiêu điều, xơ xác hoặc những xóm nghèo ngoạI ô Hà NộI. Nhân vật của ông chủ yếu là con ngườI thân phận, họ thường tìm kiếm nơi ẩn nấu trong gia đình, giữa bốn bức tường hoặc trong sân vườn, có nghĩa là tách khỏI cuộc đờI, nơi xã hộI đầy bất trắc bên ngoài. Có lẽ như thế con ngườI mớI cảm nhận hết về mình và về cuộc sống xung quanh. Dường như họ thu mình trước thực tạI để xót mình và thương ngườI, để bâng khuâng man mác khi hồI tưởng về quá khứ? Không dám nhìn về tương lai, mang nặng một mặc cảm mờ mịt trong lòng khi nghĩ về mai sau.

Cảm quan trong truyện của Thạch Lam có thể gói gọn trong ba chữ đó là niềm xót thương. Những con ngườI nhỏ bé ấy bao giờ cũng được nhà văn học trong một không khí trữ tình đầy mến thươngtoả ra một cách dịu dàng từ tấm lòng tác giả ..

Truyện của Thạch Lam không có cốt truyện đặc biệt, giọng điệu và ngôn ngữ nhiều chất trữ tình: MỗI truyện ngắn của Thạch Lam có cấu từ và giọng điệu như một bài thơ trữ tình, gợI sự thương xót trước số phận của những con ngườI nhỏ bé bất hạnh. Một giọng văn bình dị mà tinh tế. Âm điệu man mác bao trùm hầu hết truyện ngắn và thiên nhiên cũng trữ tình. Văn cứ mềm mạI, uyển chuyển, giàu hình ảnh, nhạc điệu . Đó chính là chất thơ trong truyện ngắn Thạch Lam, “có cái dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây” khiến ta vương phải.

“ Hai đứa trẻ” là đặc trưng của hồn văn Thạch Lam. Nó là “một bài thơ trữ tình đầy xót thương”
Truyện “ Hai đứa trẻ” của Thạch Lam là một mẩu chuyện sinh hoạt kéo dài của hai chị em đứa trẻ thay mẹ trông nom một gian hàng vặt ở một phố huyện gần một cái ga xép. Đêm đêm những bóng ngườI bình thường cũng lù mù đi qua trước gian hàng. Những bóng ngườI ấy cũng lù mù như nhiều chấp lửa ở những nguồn sáng quanh quất nơi phố huyện. Trong cái bốn bề chìm chìm nhạt nhạt, bỗng có tiếng động mạnh và những luồng sáng mạnh của một chuyến xe lửa kéo qua hàng ngày. Hai chị em ngày nào cũng chờ một chuyến tàu đêm kéo qua ra mớI chịu đóng cửa hàng. Nguyễn Tuân đã tóm tắt truyện như thế. Đúng vậy, truyện này tưởng như không có cốt truyện, không có biến cố. Nó chỉ là biến diễn của một thờI gian ngắn, từ khoảng năm giờ chiều khi “phương tây đỏ rực như lửa cháy” đến chín giờ tốI “đêm tốI bao bọc chung quang”; nó chỉ là biến diễn bên trong “tâm hồn ngay thơ của hai chị em Liên, An trong một buổI tốI của các thường ngày tưởng như “ tẻ nhạt”, “không có gì” … Song vượt lên trên các thường ngày, Thạch Lam bằng con đường nghệ thuật riêng vớI thế giới nghệ thuật riêng, một thờI gian riêng, không gian riêng, nhân vật riêng, ngôn ngữ riêng đã tạo nên khí vị nhẹ nhàng, buồn man mác, đậm đà hương vị đồng quê; nhiều bóng tốI mà chói sáng mốI tình thương yêu hiền hoà, nhân hậu, xót thương chân thành, phảng phất thơ toả lên từ quê hương. Truyện không có cốt truyện như chất chứa biết bao cảnh đờI, bao tâm trạng, tâm cảnh sâu lắng tinh tế.
Diện mao phố huyện được Thạch Lam tái hiện là một khung cảnh buồn, là cảnh chiều tàn đi dần vào đêm khuya. Hàng ngà, những cái ồn ào của buổI sáng làm không khí bị nhoè đi trong nắng như đến chiều thì cái bộ mặt thật của phố huyện hiện ra vớI tất cả những cái tiêu điều, xác xơ, tàn lụi. “Chiều chiều rồI” như là một lờI thảng thốt, bàng hoàng như một tiếng thơ dài. Thế là một buổI chiều nữa lạI đến, chiều là buồn. Ấn tượng về buổI chiều khá sâu đậm. Thạch Lam đã chọn một phiên chợ tàn để nói lên được tất cả bộ mặt của phố huyện. Chợ là nơi biểu hiện sức sống của một làng quê, biểu hiện thuần phong mĩ tục của làng quê. NgườI ở nông thôn thường trông chờ vào ngày chợ phiên đông vui tấp nập. Thạch Lam đã chọn ngày chợ phiên để nói cái xác xơ tiêu điều của phố huyện. Mặc dù không tả buổi chợ phiên nhưng ông đã tả những phế phẩm còn lạI của buổI chợ, đó cũng là cách biểu hiện sức sống đầy hay vơi của phố huyện. Tả những con ngườI cuốI cùng trao đổI vớI nhaurồI bước vào các ngỏ tối. Rác chỉ là những thứ phế thảI vớ vẫn “rác rưởI, vỏ bưởI, vỏ thị, lá nhãn và bã mía, những thanh nứa thanh tre…Lũ trẻ vẫn còn ra bòn mót, nhặt nhạnh. Ngày chợ phiên như thế thì sức sống đã kém lắm, đã yếu lắm rồi. NgườI bán trông vào ngườI mua và ngược lạI nhưng chỉ là sự vô vọng, lẩn quẩn, trông chờ vào sự vô vọng. Mùi vị toả ra trong không gian này là một thứ mùi đặc trưng để nói tớI sự nghèo nàn. Đó là mùi bã mía, vỏ bưởI, vỏ thị, đất ẩm, mùi khói, mùi cỏ, mùi phân trâu nồng nồng ngai ngái… Cái mùi vị ấy cũng góp phần làm cho khung cảnh thêm phần tàn tạn héo úa, lụI dần.

Có thể thấy xung đột giữa bóng tốI và ánh sáng khá mạnh mẽ. Ánh sáng và bóng tốI đang giao tranh nhau. Ánh sáng yếu dần ban đầu là “ bầu trờI đỏ rực như lửa cháy, mây ánh hồng như hòn than sắp tàn” sau đó là bóng tốI hiện dần ở bóng xẩm trên ngọn tre và cuốI cùng bao trùm lên khu phố huyện là cái bóng tốI mênh mông của nó, tín hiệu là ngọn đèn Hoa Kỳ của chị Tí. Ở đây ánh sáng và bóng tốI còn mang ý nghĩa tượng trưng, ánh sáng là ước mơ , bóng tốI là nghèo nàn và cô đơn; mở đầu chuyện ánh sáng tắt dần, bóng tốI chiếm lĩnh. Chính cái ánh sáng cuốI cùng ấy báo hiệu rõ màn đêm- màn đêm vừa sâu vừa dày sẽ diễn ra tiếp đó. Ánh sáng càng ngày càng thu nhỏ phạm vi hoặc ở xa manh mảnh, li ti như ánh sáng của ngôi sao trên bầu trờI hoặc yếu ớt ảm đạm lọt qua khe cửa khép hờ hoặc toả trên cái bóng tre của chị Tí. Ánh sáng ấy biểu hiện một sự tàn lụI ở cường độ thấp và khả năng thu hẹp của nó. Tiếng trống thu không rờI rạc, chậm, lẽ tẻ và cứ tắt lịm dần. Nhưng âm thanh nhỏ nhất như tiếng muỗI vo ve gợI cảm giác về sự ngưng đọng. Nó rơi tỏm vào trong không gian đang chết lặng. Đó là những âm thanh không có hồI âm, nó chỉ nhấn mạnh thêm cái buồn tẻ đến rợn ngườI của phố huyện lúc chiều tối. Tất cả hô ứng, qui tụ để cho ngườI đọc thấy rõ được khung cảnh thật của phố huyện một ngày tàn. Thạch Lam miêu tả nhận xét một cách tinh tế, sâu xa bước đi thờI gian của nơi phố nghèo. NgườI đọc dường như thấy được bước chuyển biến của thờI gian rung lên bằng ngôn ngữ riêng. Sức rung động của câu văn có khả năng đánh thức con ngườI hãy cảm nhận thật tinh tế khung cảnh phố huyện và tâm sự của Thạch Lam.
Trên cái nền ấy, những cảnh đờI, những con ngườI, đúng hơn là những phiến cảnh về cuộc đờI, về con ngườI bé mọn, hoàn toàn không có ước vọng, khát khao được khắc hoạ rõ nét. Họ nói chuyện vớI nhau nhưng dường như chẳng có nộI dung. Họ có đi lạI, ăn nói vớI nhau nhưng chỉ thấy họ vừa lòng thoả mãnvớI cảnh chật hẹp. Mua chịu nửa bánh xà phòng, bán đong hơn một ngấn rượu trong chiếc cút bé nhỏ …Chị Tí là điển hình cho ngườI dân phố huyện vớI nhịp sống quẩn quanh : ban ngày mò cua bắt tép, ban tốI chị mớI mở cái hàng bán nước. Cái đáng sợ là vẫn biết bán không được gì “sớm muộn mà có ăn thua gì?” mà vẫn cứ ra. Đây không phảI là sự sống thực sự mà là sự sống cầm chừng cầm cự vớI cuộc sống, giao tranh, tranh giành vớI cái đói,cái chết trông chờ vào những ngườI trên tàu là qua bấp bênh có khác gì trông chờ vào những ngườI khách ấy để sống. Cách chị Tí trả lờI câu hỏI của Liên: không trực tiếp trả lờI ngay mà còn làm thêm để chõng xuống đất, bày biện các bát uống nước mãi rồI mớI chép miệng trả lờI : “ỐI chao, sớm muộn mà có ăn thua gì”. Câu văn cho ta thấy nhịp sống chập chạp, lẩn quẩn của nhân vật. Bác phở Siêu có vẻ khá hơn nhưng nhưng nguy cơ lạI lớn hơn vì thứ mà bác bán là thứ quà xa xỉ mà ngay cả chị em Liên cũng không dám ăn. Bác Xẩm góp tiếng đàn run bần bật trong đêm tốI, mà không hề có tiếng động nào của một đồng xu. Bà cụ là một con ngườI bị tàn lụI, héo úa và cho ta cảm giác rợn ngườI, kinh hoàng. Bà là kiếp ngườI đáng sợ ở chi tiết vừa đi vào bóng tốI vừa cườI khanh khách. Cách xưng hô vớI Liên “chị” đã kéo xa khoảng cách tình giữa con ngườI vớI con gnườI vốn nó rất cần trong hoàn cảnh cầm chứng này. Cụ Thi điên là một nạn nhân đầy đủ nhất của kiếp ngườI, như một cái cây đã tàn lụI quá nhiều - kiếp ngườI héo hắt – tàn lụi. Cụ Thi xuất hiện chỉ trong mấy dòng truyện ít ỏI nhưng đã ám ảnh ngườI đọc, thức dậy trong ta lòng trắc ẩn chân thành.
Ở vị trí tiền cảnh của bức tranh đờI buồn thảm, héo tàn, mờ mờ lay động bóng hai chị em nhỏ tuổI cũng âm thầm không kém vớI cái “cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu” mà khách hàng là những ngườI khốn khổ có khi không đủ tiền mua nổI nửa bánh xà phòng hoặc chỉ đủ tiền cho cút rượu nhỏ “uống một hơi cạn sạch”. Liên xót xa cho những kiếp ngườI lay lắt nhưng cuộc sống của Liêncũng cầm chừng không kém. NỗI khổ của Liên có lẽ còn cao hơn nỗI khổ vật chất của những ngườI khác, đó là bi kịch tinh thần bởI họ khổ mà không biết mình khổ còn Liên đã thực sự thấm thía cảnh sống tẻ nhạt tù hãm và đơn độc hết ngày này sang ngày khác. Biện pháp duy nhất để khuây khoả nỗI hắt hiu, đơn điệu chỉ là đêm nào cũng mỏI mắt cố gắng chờ đợI một chuyến tàu đi qua : “đó là hoạt động cuốI cùng của đêm khuya”.

Ánh sáng của đoàn tàu là mảng ánh sáng rực rở, mạnh mẻ song ở ánh sáng này cũng chỉ vụt loé lên nhanh như một vì sao băng dể rồI vĩnh viễn tắt lịm trong màn đêm khiến ta phảI ngơ ngác, bàng hoàng. Dường như “Hai đứa trẻ” là truyện của những nguồn ánh sáng, hồi tưởng của Liên cũng là hồI tưởng về ánh sáng. Lần đầu tiên Liên “nhớ lạI” Hà NộI, một kí ức không rõ rệt, Hà NộI là một vừng sáng rực lấp lánh “và” Hà NộI nhiều đèn quá. Lần thứ hai, Liên mơ tưởng “Hà NộI xa xăm” , “Hà NộI sáng rực vui vẻ và huyên náo” . Cái cảnh tượngcủa quá khứ đẹp đẽ ấy tương phản gay gắt vớI cái tốI mịt mù dướI gốc bàng của hiện tạI đang diễn ra. Quá khứ và hiện tạI, ánh sáng và bóng tốI, lãng mạng và hiện thực, giấc mơ nghèo và sự thật nghèo khổ, tất cả tạo nên biến động sâu kín trong tâm hồn Liên. Ánh sáng của đoàn tàu là ánh sángcủa mơ ước, nó chỉ thoáng qua, tắt lịm và để rồI tất cả lạI chìm trong bóng tốI mênh mông, buồn tẻ.
Tất cả các nhân vật đó đã hiện ra dướI cái nhìn xót thương của ngườI tái hiện. Và nỗI thương cảm của Liên đốI vớI mấ đứa trẻ đi nhặt rác, vớI chị Tí, vớI bác Siêu, vớI cụ Thi điên cũng là cảm xúc của chính Thạch Lam. Thạch Lam đã hoá thân vào nhân vật để nói cái cảm quan xót thưong của mình. Đoàn tàu vớI thoáng sáng vụt qua rất nhanh rồI tắt lịm đã thay đổI một chút ít không khí của thế giớI hiện tạI, phảI chăng đó là khát vọng thoát khỏI cuộc sống tù đọng dù chỉ trong chốc lát của Thạch Lam. Nhà văn day dứt về một kiếp sống tàn lụI, héo úa, đơn điệu, hư vô chứ không chỉ có xót thương thông thường. Chính vì vậy mà ông trình bày hiện thực của phố huyện mang ý nghĩa khái quát lớn của xã hộI Việt Nam về sự trì trệ. Nếu đặt trong dòng thờI sự văn học buổI ấy, ta thấy Thạch Lam phản ánh khá rõ nét một hoàn cảnh, tâm lí thờI đạI mã Nam Cao đã phảI từng thốt lên : “Cuộc đờI đang cùn đi, gỉ đi, nổI váng lên”…

“Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn như một bài thơ trữ tình bởI cấu từ, giọng điệu, ngôn ngữ của nó, giống như một bài thơ.

Cấu từ của truyện là cấu từ vòng tròn xoay quanh hình ảnh bóng tốI được lặp đi lặp lạI nhiều lần (không dướI ba mươi lần). Khi miêu tả cảnh trờI phố huyện cũng như cảnh đờI những con ngườI phố huyện, tác giả đặc biệt có ý sử dụng một cách công phu yếu tố nghệ thuật :hình ảnh bóng tốI bao trùm cảnh vật và con ngườI mà tác giả dụng công miêu tả từ nhiều thờI điểm, từ nhiều góc nhìn, từ nhiều tâm cảnh khác nhau. Bóng tốI như một ám ảnh, như một sự hăm doạ, như một quái vật đè nặng lên cảnh vật và con người. Tác giả nhắc đến bóng tốI nhiều lần dướI những cách nói hình ảnh từ ngữ tuy có khác nhau : “buổI chiều hòn than sắp tàn”, “mặt đen lạI”, “chiều, chiều rồI” , “bóng tốI ngập đầy” , “bước của buổI chiều” , “ngày tàn” . Tác giả miêu tả rất nhiều trạng thái khác nhau của bóng tốI đến vớI tiếng trống thu không tư trên chòi cao, bóng tốI sắp đến vớI những đám mây hồng như hòn than sắp tàn, bóng tốI đến vớI dãy tre làng đen lạI, bóng tốI đến vớI cánh muỗI vo vo, bóng tốI đến vớI những viên đá nhỏ trên con đường mấp mô, bóng tốI trùm lên đường phố và các ngõ huyện… Nói tóm lạI, bóng tốI được lặp đi lặ lạI đầu và cuốI huyện. Bóng tốI như một cái gì hãi hùng đang hoạt động, đang thâm nhập, đanglen lỏI, luồn lách, bám sát vào mọI cảnh vật, mọI trạng thái hoạt động âm thâm của mọI sinh vật. Nó như cái nền không gian nghệ thuật của tác phẩmvà không gian xã hộI của con người. BởI tốI là lúc chị Tí xuất hiện “tốI đến chị mớI dọn cái hàng dướI gốc cây bàng”; về đêm bác phở Siêu mớI xuất hiện như một chấm lửa nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tốI, mất đi rồI lạI hiện ra … bóng tốI là nơi cụ Thi mang đến và mang đi “một tiếng cườI khanh khách nhỏ dần” , một cụ Thi cuộc đờI không rõ ràng nhưng rõ ràng là đang chứa ẩn một nỗI lòng u uất cứ chìm trong bóng tốI; vợ chồng bác Xẩm thu gọn trên manh chiếu chật hẹp, vớI chị em Liên, tác giả kể tỉ mỉ hơn nhưng tâm trạng, những suy nghĩ của hai đứa trong đêm tốI: đêm tốI ngập đầy đôi mắt của Liên, Liên thích ngồI yên lặng ngắm nhìn trong đêm tốI, về khuya, Liên ngồI yên lặng trong đêm chờ đón đoàn tàu, khi tàu vụt qua, Liên nhập dần vào giấc ngủ yên tĩnh như đêm ở trong phố tịch mịch và đầy bóng tối…

Lặp đi lặp lạI gián tiếp hay trực tiếp hình tượng bóng tốI cũng chính là cách để tác giác bộc lộ chủ đề tác phẩm qua cảm quan xót thương và tạo cho truyện có âm hưởng, cấu từ như một bài thơ trữ tình.

Mặt khác, việc miêu tả những cảm giác thiên nhiên rất hiếm trong hiện thực phê phán nhưng trong “Hai đứa trẻ” , Thạch Lam luôn luôn miêu tả khi có cơ hội. Thiên nhiên bao bọc truyện vớI nhiều trạng thái phong phú. Tác giả còn chú ý khắc hoạ được cảm giác mơ hồ về giờ khắccủa ngày tàn và về vũ trụ thăm thẳm bao la rất gần ũi mang sắc thái dân tộc, cũng chính vì vậy mà nhân vật chính của câu chuyện là Liên cứ mang theo vẻ hồn man mác.

Chất thơ còn được thể hiện ở ngữ điệu nhỏ nhẹ, man mác thú vị ở lờI văn, ở những cảm xúc tinh tế của một tâm hồn dể rung động. Truyện cứ trảI dài ra như một bài thơ, lắng sâu thanh lọc hồn ta. Chất nhạc thấm trong từng câu văn thấm thía. Một giọng văn bình dị mà tinh tế, đầy ưu ái. Có thể nói “ hai đứa tẻ” là một bài thơ trữ tình trọn vẹn của Thạch Lam.
Khi nói “mỗI truyện là một bài thơ trữ tình đầy xót thương” thì ngườI nói muốn nhấn mạnh cả về nộI dung lẫn hình thức của truyện. NộI dung thể hiện hình thức và ngược lại. Nó là sự gắn bó hoài hoà để tạo nên tác phẩm. Văn phong của Thạch Lam được thể hiện đặc trưng trong “Hai đứa trẻ”, và tôi muốn kết thúc bài viết này bằng ý kiến của Nguyễn Tuân: “Ngày này đọc lạI Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học.”

Bài 3:
Trong các nhà văn lãng mạn nổi tiếng (1930-1945), Thạch Lam có phong cách riêng biệt không lẫn với bất kì nhà văn nào. Đang khi các nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng thiên về tần lớp trên của xã hội thì Thạch Lam lại viết về những con người bé nhỏ, nghèo khổ , sống trong bóng tối. Văn Thạch Lam nhẹ nhàng với lối quan sát độc đáo và phân tích tâm lí tinh tế. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” tiêu biểu cho văn phong Thạch Lam cho lí tưởng xã hội và quan điểm thẩm mĩ của Thạch Lam.

Thạch Lam có lối viết truyện ngắn không có cốt truyện. Ông không kích thích người đọc bằng cốt truyện li kì và tình tiết éo le. Ông hấp dẫn người đọc bằng chất liệu bên trong của đời sống, bằng lí tưởng xã hội tiến bộ của nhà văn, bằng phân tích tâm lí tinh tế và bằng tinh thần lãng mạn của ông. Thạch Lam dồn nén các nhân vật, các sự kiện và diễn biến của con người, của hành động trong một thời gian ngắn và không gian nhỏ. Nó cũng thích hợp với những nhân vật nhỏ bé của ông. Truyện của Thạch Lam có chiều sâu hun hút, chiều sâu của cuộc sống, chiều sâu của lòng người và chiều sâu của mộng mơ, ước vọng.

Liên và An là hai đứa trẻ từng sống ở Hà Nội, rồi gia đình bị sa cơ thất thế nên đã trở về quê, một phố huyện hẻo lánh. Hai chị em trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. “Một gian hàng bé thuê lại của bà lão móm, ngăn ra bằng một tấm phên nứa dán giấy nhật trình”. Buổi tối hai chị em cùng ngủ ở đây để trông hàng. “Đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng với cái tối của quang cảnh phố chung quanh”, thế giới chung quanh hai đứa trẻ là những con người bé nhỏ đang thương, sống lẩn lút trong bóng tối. Đó là chị Tí ngày thì mò cua bắt ốc, tối đến dọn cái hàng nước dưới gốc cây bàng với ngọn đèn Hoa Kỳ leo lét. Đó là cụ Thi, bà lão hơi điên, tối tối đến cửa hàng Liên nốc một cút rượu rồi lẫn vào bóng tối với giọng cười khanh khách. Đó là bác phở Siêu gánh gánh phở, món quà xa xỉ của phố huyện, có chấm than hồng như ma trơi. Đó là vợ chồng bác Xẩm góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật lên trong yên lặng. Đó là mấy đứa trẻ con nhà nghèo đi nhặt thanh nứa thanh tre hoặc bất cứ cái gì có thể dùng được. Từ cảnh thiên nhiên đến số phận con người đều có một cái gì tàn lụi, không tương lai, leo lét một cách tội nghiệp, trong nghèo đói, buồn chán và tăm tối.

“Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ của họ”. Thạch Lam đã hiểu sâu sắc những con người bé nhỏ trong bóng tối này với những ước vọng đáng thương của họ.

Sống trong bóng tối, trong yên lặng, trong buồn chán, đêm đêm chị em Liên cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua “tàu đến chị đánh thức em dậy nhé!”. Nghe lời dặn của bé An ta cảm thấy hai đứa trẻ tha thiết với chuyến tàu đêm đến biết chừng nào. Rồi đèn ghi ra. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vọng lại trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi. Và chỉ cần nghe chị Liên gọi: “Dậy đi An! Tàu đến rồi!” là Anh nhổm dậy dụi mắt và tỉnh hẳn. Rồi tiếng còi rít lên, đoàn tàu rầm rộ đi tới. Liên quan sát rất kĩ đoàn tàu, thèm khát như được nhìn một thế giới xa lạ “Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh và các cửa kính sáng”. Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Chuyến tàu đã xáo trộn cả cõi yên tĩnh của phố huyện. Chuyến tàu gợi cho Liên mơ tưởng: “Họ ở Hà nội về! Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”.

Rõ ràng là Liên và An đợi tàu không phải để bán ít quà vặt cho khách đi đường mà là một nhu cầu bức xúc về tinh thần của hai đứa trẻ, muốn trong chốc lát được thoát ra khỏi cuộc sống buồn chán tối tăm này. “Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên khác hẳn các vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”. Dưới mắt hai đứa trẻ, chiếc tàu là hình ảnh của một thế giới văn minh, giàu sang, nhộn nhịp, huyên nào và đầy ánh sáng.

Qua tâm trạng đợi tàu của hai đứa trẻ, tác phẩm thể hiện một niền xót thương vô hạn đối với những kiếp người nhỏ bé vô danh không bao giờ được biết ánh sáng và hạnh phúc. Cuộc sống mãi mãi bị chôn vùi trong tăm tối nghèo đói, buồn chán nơi phố huyện và nói rộng ra trên đất nước còn chìm đắm trong cảnh nô lệ và đói nghèo. Qua tâm trạng Liên, tác giả đồng thời cũng muốn thức tỉnh tâm hồn uể oải đang lụi tắt ngọn lửa lòng khao khát được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khao khát thoát khỏi cuộc đời tăm tối đang chôn vùi họ.

Bài 4
Trong tác phẩm “ Gió lạnh đầu mùa”, nhà văn Thạch Lam có phát hiện địa ý như thế này: đối với tôi khôn gphair đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao làm trong sạch lòng người, làm thay đổi thế giới tàn ác và giả tạo. Là một nhà văn có chân trong nhóm tự lực văn đoàn nhưng sáng tác của Thạch Lam khác hẳn, không như những người anh của mình: Nhất Linh, Khải Hưng, Hoàng Đạo họ thường viết về mối tình quí cô, quí cậu, cậu ấm cô chiêu để phục vụ cho tầng lớp no đủ ở thị thành, những tác phẩm tiêu biểu như “ Đồi thôn hai mộ”, “Giăng thề”, “ Kiếp hoa”, “ Hồn bướm mơ tiên, đời mưa gió”. Thạch Lam lách sâu ngòi bút của mình vào đời sống tiểu tư sản nghèo với một kiếp đời chao chác mênh mông, một cuộc sống bế tắc quẩn quanh. Vì vậy truyện của Thạch Lam thường đem đến cho người đọc cuộc sống thực. Thạch Lam viết truyện thường không có cốt, truyện không mâu thuẫn, không kịch tính, không gay cấn, truyện của ông có thể làm thất vọng những ai đó có tính hiếu kì nhưng bù lại tưới đấm lên trên từng trang viết của Thạch Lam là tình cảm nhân văn, nhân đạo sâu sắc vì thế truyện của Thạch Lam vẫn có một ma lực riêng. “ Hai đứa trẻ” là một tác phẩm cho phong cách chuyện của Thạch Lam. Truyện được rút từ tập “ Nắng trong vườn” xuất bản 1938. Thành công của Thạch Lam trong tác phẩm này là ông đã xây dựng một cách chân thực cảm động bức tranh đời sống phố huyện nghèo. Qua đó đã chứng tỏ ngòi bút của Thạch Lam là một ngòi bút nhân đạo nhân văn sâu sắc cao cả. Văn hào người Nga Sê Khốp đã từng nói “ một người nghệ sĩ chân chính phải là một người nhân đạo từ trong cốt tủy” Thạch Lam là một nhà văn như vậy.
1, Bức tranh lúc buổi chiều:
Đọc hai đứ trẻ của Thạch Lam người đọc như được bước chân vào thế giới đồng quê muôn năm không thay đổi- thế giới êm đềm tĩnh lặng như nhung. Phương Tây đỏ rực như một đám cháy những đám mây xám hồng đọng lại những ánh tà dương chẳng khác nào những hòn than trong lò sắp tàn. Cả phố huyện giờ đây đang nhạt nhòa trong ánh sáng và bóng tối nhưng xem ra ánh sáng yếu ớt kia đang gượng lại. Không gian của phố huyện trong bóng tối. Cảnh buổi chiều quê êm đèm đến tê lòng ấy đã hơn một lần bước vào thơ ca, nhất là trong “ Tương tư chiều” của Xuân Diệu:
“Không gì buồn bằng những buổi chiều êm.
Mà ánh sáng đều hoà cùng bóng tối.
Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối;
Vài miếng đêm u uất lẩn trong cành;”
Vang lên trên phố huyện này là âm thanh của tiếng trống thu không trên chò canh đi gọi một ngày tàn. Tiếng chống thu không trong tác phẩm này chẳng khác nào như một chiếc bản lề khép mở hai thế giới. Vừa khép lại thế giới của những người suốt ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, tiêu biểu là mẹ con chị Tý, đồng thời cũng mở ra một thế giới khác của những kiếp người đang chờ đợi, hi vọng một điều gì đó trong bóng tối. Bức tranh phố huyện được nhà văn Thạch Lam vẽ lên bằng những giác quan để tạo nền cho con người phố huyện xuất hiện. Và thực sự chỉ khi có con người xuất hiện thì bức tranh đời sống phố huyện này mới trở lên sống động và chân thực hơn là hình ảnh của phiên chợ tan. Nhà văn đã tập trung vào mô tả cảnh của phiên chợ tàn. Đó là cảnh chợ tàn tạ, xác xơ tiêu điều. Có thể khẳng định khi viết về xã hội của Việt Nam quẩn quanh bế tắc:
“Kiếp người cơm vài cơm rơi
Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi”
Các thi nhân thường mô tả cảnh chợ chiều như trong tác phẩm “ Tràng Giang”, nhà thơ Huy Cận đã phải thốt lên rằng
“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
Đến với “Chợ tết” của Đoàn Văn Cừ cũng có cảnh chợ tết tàn tạ, xác xơ, tiêu điều như thế này
“Những người dân quê lũ lượt trở về
Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ”
Tuy nhiên, bản chất của thơ là gợi, muốn hiểu được cảnh chợ tàn hiện ra chân thực như thế nào ta phải trở lại với văn xuôi, trở về với tác phẩm “Hai đứa trẻ”. Đó là hình cảnh những người cuối cùng ra về hết, còn lại trên nền chợ là lều trõng trơ trọi xiêu vẹo, cùng mấy đứa trẻ con nhà nghèo đang lom khom lượm nhặt những thứ rác rưởi mà chợ quê nghèo thải ra. Chúng sẽ bòn mót lượm nhặt được điều gì đây khi đống rác thải kia còn trơ lại toàn là vỏ nhãn, vỏ thị, vỏ bưởi, là thanh tre, thanh nữa…, trời tối dần trông chúng càng còm cõi. Hơn tất cả những hình ảnh này điều được ghi rõ vào tâm hôn của Liên và An. Liên nhìn thấy chúng vô cũng động lòng thương, chị định cho chúng tiền nhưng đời chị cũng đâu có khá hơn gì chúng chính vì vậy tâm hôn của Liên cũng chỉ dừng lại ở sự đồng cảm. Đây là một phong cách nghệ thuật đặc sắc là ngòi bút quan trọng chi phối nhà văn Thạch Lam. Ông thường lách sâu ngòi bút của mình để mô tả cuộc sống của những đứa trẻ con nhà nghèo. Ngay như trong “ Gió lạnh đầu mùa” Sơn đã tặng chiếc áo cho Lan, đó là hình ảnh của nhân vật trẻ thơ mang đậm tính cách, tình cảm và con người mang đến cho nhau. Với cảnh chợ nghèo của phố huyện các cụ ngày xưa có câu: “Nhất cận thị nhị cận giang”một thị trường nghèo xác xơ, tiêu điều như thế này xem ra cái tương lai của những đứa trẻ kia cũng không sáng sủa lên được khi ánh sáng hằng ngày nơi đây vẫn mù mịt tối tăm. Ta không cần đi sâu vào cuộc sống phố huyện cũng nhận thấy được cuộc sống của con người phố huyện cũng tàn tạ thế nào rồi.
2,Bức tranh lúc buổi tối
Sức nặng của truyện ngắn “Hai đứa trẻ” tập trung vào phần cuối câu truyện khi trời tối. Người xưa có câu “ Thi trung hữu họa” nên chăng ta chuyển thẳng bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi này thành một bức họa phẩm. Hiện lên trong bức tranh ấy gam màu chủ đạo mà Thạch Lam sử dụng ở đây là gam màu đen, một màn tối. Nhà văn tập trung vào mô tả bóng tối và điều quan trọng rằng trong bóng tối phố huyện Cẩm Giàng lại càng trở lên mờ mịt, nó bò ra từ trong lòng của cuộc sống: con đường ngang qua chợ, các ngõ đều thăm thẳm tối, bóng tối đang dần bò ra từ trong lòng của cuộc sống. Ngay cả hình ảnh rặng tre làng cũng cất cái bóng tối của nó lên nền trời. Liên cũng nhận thấy khi trời hơi tối muối bắt đâu vo ve nơi góc quán chợ. Kì là thay vì tới tối người ta không thể nhìn rõ khuôn mặt của Liên nhưng người ta nhìn thấy rõ bóng tối đang dần dần bò vào trong đôi mắt đen sâu thẳm của cô mang theo một buổi chiều quê êm đềm tĩnh lặng. Điều ấy có nghĩa là bóng tối kia đã bước qua không gian của nó để trở thành bóng đời chìm lẩn. Thạch Lam vẽ ra một buổi tối chiều quê êm đềm và thơ mộng rõ ràng. Và cứ như thế, những nhà trong phố huyện này khi trời tối nó trở lên đen tối như một miền đất chết. Để làm tăng thêm ma lực của bóng tối, nhà văn Thạch Lam đã tập trung mô tả những ngọn đèn leo lét của phố huyện. Sự xuất hiện những ngọn đèn không làm cho không gian phố huyện này sáng thêm mà trái lại nó làm cho bức tranh của phố huyenej Cẩm Giàng càng trở nên rách vá hơn bởi những ngọn đèn thưa thớt từng hột sáng, có cái lay lắt bóng dài, có cái lốm đốm xanh biếc chập chờn như con đom đóm có cái lại chập chờn leo lét như ma chơi… Các ngọn đèn ấy không đủ để thắp lên anh sáng của phố huyện mà nó lại yếu trong mức một hòn đá con hay một mô đất nhỏ cũng bị phân chia thành hai phần sáng tối . Toàn bộ ánh sáng ở đây không làm cho nó sáng sủa hơn mà làm cho ma lực của bóng tối càng thể hiện rõ. Muốn đi tìm nguồn sáng trong phố huyện Cẩm Giàng còn một cách cuối là ngửa mặt lên nhìn sao trời. Sao trời mùa hạ sáng vô tình như hoa lẻ. Nhưng trời mùa hạ cao và sâu lắm, ánh sáng yếu ớt leo lắt kia liệu có đủ làm cho không gian phố huyện này sáng lên không. Đó là bầu trời của sự sâu thẳm, sâu chót vót, nói đến đây ta lại nhớ đến câu thơ “ Nắng xuống trời lên sâu chót vót” trong bài thơ “ Tràng Giang” của Huy Cận. Rồi ở bài thơ “ Các vị la hán chùa Tây Phương” cũng nước mắt lên nhìn trời sâu. Vì lẽ đó lại quay trở lại ngọn đèn trong truyện ngắn “ Hai đứa trẻ” chắc chắn trong câu chuyện này Thạch Lam đã mô tả ngọn đèn của chị Tý hiện lên đến bẩy lần. Đây không còn là ngọn đèn sinh hoạt nữa mà đó là một điểm nhấn nghệ thuật trong bài thơ trữ tình này.
Mỗi một cuộc sống đều có âm thanh riêng của nó, ở phố huyện này âm thanh ấy là gì nếu không phải đó là bản nhạc đồng quê muôn năm không thay đổi. Ở trong đó ta nhận thấy tiếng ếch nhái kêu ran ở ngoài đồng, tiếng côn trùng rên rỉ tỉ tê, tiếng dế khoan nhắt mà Liên nghe thấy, tiếng gió từ đồng xa đưa vào. Những âm thanh ấy nó liên kếtlaij tạo thành một dàn âm thanh. Nổi lên trên dàn âm thanh ấy ta thấy ở đây là tiếng trống cầm canh đánh tung lên từng tràng một, không đủ sức vang xa chẳng khác nào cuộc đời của con người nơi đây, càng nghe càng thấy nẫu ruột. Ở phố huyện này còn có mùi vị riêng của nó. Đó là mùi nồng nồng của đất cát lẫn với rác rưởi mà Liên xem đó là mùi vị nghèo của quê mình. Cần ấy chi tiết đã được Thạch Lam sử dụng làm nền cho con người xuất hiện trong bóng tối. “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” tối đến ta lại thấy ngần ấy mặt người lại lũ lượt xuất hiện ở cái phố huyện Cẩm Giàng này. Ngồi từ ban chiều trên chiếc chõng tre gẫy dở kia đó là chị em Liên để mặc cho hoa bàng rơi trên vai áo. Tất cả ngược xuôi là bóng của mẹ con chị Tý-cuộc đời người đàn bà mò cua bắt ốc mòn lưng mòn gối trên cánh đồng tối đến lại dọn chiếc chõng tre. Cái nồi đồng, mấy cái bát mẻ cùng với ngọn đèn dầu để mở ra một cái quán hàng hi vọng. Chị mở ra quán hàng ấy cùng với một niềm hi vọng mong manh lên rồi vụt tắt, nỗi tuyệt vọng . Nhìn thấy Liên hỏi chị Tý sao hôm nay chị dọn hàng muộn thế, chị Tý trả lời: Ôi ! dào! Muộn hay sớm thì ăn thua cái nỗi gì. Như vậy, chị Tý đã thắp lên một quá hàng hi vọng nhưng để rồi cũng tuyệt vọng. Và kia là bác phở Siêu với lưng vốn kha khá làm lên quán hàng phở dong.Nhưng ở phố huyện Cẩm Giàng này, cái gánh hàng phở không người lái của bác lại trở thành một món hàng xa xỉ. Nhìn dáng gánh hàng ngã xấp ngã ngửa giữa đường của bác phở Siêu như báo trước được tương lai của gia đình nhà bác. Khuất trong bóng tối kia là gia đình bác xẩm mù sờ xoạng trên manh chiếu rách. Gia đình bác nghèo lắm, không đủ sức thắp lên một ngọn đèn. Bởi mỗi con người nơi đây đều có ánh sáng của riêng mình. Chị em liên là ngọn đèn Hoa Kì trên quả thuốc sơn đen, mẹ con chị Tí có ngọn đèn dầu, bác phở Siêu là hình cả của lò than rực hồng. Để bù sao không gian của bóng tối gia đình bác bật lên những tiếng đàn bầu nghe bần bật và ngao ngán. Trước mặt gia đình bác giờ đây là một manh chiếu rách với đứa trẻ lê la ra đất, bới nhặt những thứ rác bẩn thỉu là chiếc chậu thau tráng men như bàn tay của cả gia đình đang giơ ra đón nhận những giọt hạnh phúc hiểm hoi của thiên hạ, hôm nay tuyệt nhiên không thấy.Cuối cùng là bà cụ Thi nghiện rượu với tiếng cười khanh khách, man dại của cụ luồn vào trong không gian đâm vào tâm hồn ngây thơ của Liên và An.
Cả phố huyện quẩn quanh cũng chỉ có từng ấy mặt người, chờ đợi hi vọng một điều gì đó trong bóng tối . Đọc tác phẩm này nhà thơ Huy Cận có viết trong bài “ Quẩn quanh”
“Quẩn quanh mãi cũng vài ba dáng điệu
Tới hay lui cũng ngần ấy mặt người
Miệng muốn nói sao thấy buồn cười
Quẩn quanh mãi cũng vài ba dáng điệu”
Liên và An cũng như những ngưởi trong phố huyện, đêm đêm thức đợi đoàn tàu từ Hà Nội đi qua. Mẹ Liên vẫn dặn hai chị em đêm thức đợi tàu để bán hàng nhưng Liên hiểu hơn ai hết đợi tàu không phải vì mục đích buôn bán. Bởi ngày chợ phiên cũng chẳng bán được gì ngoài bao diêm gói thuốc lào, nửa bán xà phòng,…Chưa nói đến tàu dạo này đang ở thời kì làm ăn thua nỗ. An nói: “Tàu hôm nay không đông nhỉ chị nhỉ” Liên đợi tàu vì lí do khác. Muốn hiểu là vì lý do gì ta phải chờ đoàn tàu đến. Cứ chín giờ đoàn tàu từ Hà Nội cập bến ga Cẩm Giàng. Khi tàu vào ghi nó rú lên hồi còi inh ỏi, xé toang màn đêm đen đặc, đồng thời tiếng bánh nghiến trên đường ray tạo thành tiếng đồng, tiếng kiền.Âm thanh tương phản với bản nhạc đồng quê muôn năm không thay đổi ở phố huyện này. Đèn điện trên tàu “sáng choang” theo cách cảm nhận của bé An, ánh sáng ấy tương phản hoàn toàn với những ngọn đèn thưa thớt từng hột sáng, xanh biếc như con ma chơi . Người trên tàu ăn mạng sang trọng đi lại nhộn nhịp khác hẳn với những bóng đời dật dờ ở nơi đây. Và điều quan trọng, đoàn tàu như chở đến trước mắt Liên một cuộc sống đích thực như ở trên tàu. Nó mách bảo Liên ở “đâu đó” trên trái đất này vẫn còn có một cuộc sống sáng sủa. Đó là cuộc sống vận động, cuộc sống phát triển còn ở phố huyện này là cuộc sống dậm chân tại chỗ thậm chí thụt lùi. Không phải ngẫu nhiên kết thúc hình ảnh con người trong phố huyện Thạch Lam lại kết thúc bằng hình ảnh bà Thi ngửa cổ tu rượu cười khanh khách. Đó là tương lai của phố huyện này. Hôm nay phố huyện có thể là bác phở Siêu với lưng vốn kha khá với hàng ế ẩm ngày mai có thể là mẹ con chị Tý và cứ như thế ngày kia có thể là gia đình bác Xẩm và sẽ chẳng bao lâu nữa sẽ tan đi một nửa như bà cụ Thi điên. Rõ ràng cuộc sống của phố huyện là quẩn quanh không lối thoát.
Truyện của Thạch Lam bỗng bạc như sao trời mùa hạ, truyện nhẹ nhàng không gân guốc. Thế nhưng đọc xong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” người đọc văn nhận thấy một điều gì đó không hẳn là mệnh lệnh : “ Hãy cứu lấy con người hay cứu lấy những đứa trẻ nhất là tâm hồn của họ đừng để họ đi đến sự bơ vơ dù thế nào đi chẳng nữa điều đó vẫn là tội nỗi”. Khi chuyện tàu đi qua Liên thiếp vào giấc ngủ, mặc dù đang ở độ đầu xanh tuổi trẻ nhưng Liên cũng chẳng biết mơ gì, ẩn hiện qua đầu óc Liên là ngon đèn của mẹ con chị Tý chỉ sáng vàng đất rất nhỏ, ta còn nhớ đến tứ thơ
“ Đời tôi là những chuyến tàu đêm
Khách ồn ào những ga đi và đến
Rồi sớm mai khi đoàn tàu cập bến
Những toa tàu lại trống vắng cô đơn”
Có lẽ sẽ là hợp lý hơn, nếu chúng ta kết thúc bài viết của mình bằng câu nói của đại văn hào Roaytow khi nhận xét tác phẩm “Những người cùng khổ” của V.Huy.Go: “Chừng nào trên trái đất vẫn còn những con người đau khổ muốn khao khát sống một cuộc sống sáng sủa hơn thì chừng ấy những cuốn sách như này vẫn còn nguyên giá trị” “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam là một tách phầm như thế.

Hình ảnh “Hai đứa trẻ và đoàn tàu”

Liên và An là hai đứa trẻ từng sống ở Hà Nội, rồi gia đình bị sa cơ thất thế nên đã trở về quê, một phố huyện hẻo lánh. Hai chị em trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. “Một gian hàng bé thuê lại của bà lão móm, ngăn ra bằng một tấm phên nứa dán giấy nhật trình”. Buổi tối hai chị em cùng ngủ ở đây để trông hàng. “Đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng với cái tối của quang cảnh phố chung quanh”, thế giới chung quanh hai đứa trẻ là những con người bé nhỏ đang thương, sống lẩn lút trong bóng tối. Đó là chị Tí ngày thì mò cua bắt ốc, tối đến dọn cái hàng nước dưới gốc cây bàng với ngọn đèn Hoa Kỳ leo lét. Đó là cụ Thi, bà lão hơi điên, tối tối đến cửa hàng Liên nốc một cút rượu rồi lẫn vào bóng tối với giọng cười khanh khách. Đó là bác phở Siêu gánh gánh phở, món quà xa xỉ của phố huyện, có chấm than hồng như ma trơi. Đó là vợ chồng bác Xẩm góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật lên trong yên lặng. Đó là mấy đứa trẻ con nhà nghèo đi nhặt thanh nứa thanh tre hoặc bất cứ cái gì có thể dùng được. Từ cảnh thiên nhiên đến số phận con người đều có một cái gì tàn lụi, không tương lai, leo lét một cách tội nghiệp, trong nghèo đói, buồn chán và tăm tối.

“Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ của họ”. Thạch Lam đã hiểu sâu sắc những con người bé nhỏ trong bóng tối này với những ước vọng đáng thương của họ.

Sống trong bóng tối, trong yên lặng, trong buồn chán, đêm đêm chị em Liên cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua “tàu đến chị đánh thức em dậy nhé!”. Nghe lời dặn của bé An ta cảm thấy hai đứa trẻ tha thiết với chuyến tàu đêm đến biết chừng nào. Rồi đèn ghi ra. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vọng lại trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi. Và chỉ cần nghe chị Liên gọi: “Dậy đi An! Tàu đến rồi!” là Anh nhổm dậy dụi mắt và tỉnh hẳn. Rồi tiếng còi rít lên, đoàn tàu rầm rộ đi tới. Liên quan sát rất kĩ đoàn tàu, thèm khát như được nhìn một thế giới xa lạ “Liên chỉ thoáng trông thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh và các cửa kính sáng”. Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Chuyến tàu đã xáo trộn cả cõi yên tĩnh của phố huyện. Chuyến tàu gợi cho Liên mơ tưởng: “Họ ở Hà nội về! Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”.

Rõ ràng là Liên và An đợi tàu không phải để bán ít quà vặt cho khách đi đường mà là một nhu cầu bức xúc về tinh thần của hai đứa trẻ, muốn trong chốc lát được thoát ra khỏi cuộc sống buồn chán tối tăm này. “Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên khác hẳn các vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”. Dưới mắt hai đứa trẻ, chiếc tàu là hình ảnh của một thế giới văn minh, giàu sang, nhộn nhịp, huyên nào và đầy ánh sáng.

Qua tâm trạng đợi tàu của hai đứa trẻ, tác phẩm thể hiện một niền xót thương vô hạn đối với những kiếp người nhỏ bé vô danh không bao giờ được biết ánh sáng và hạnh phúc. Cuộc sống mãi mãi bị chôn vùi trong tăm tối nghèo đói, buồn chán nơi phố huyện và nói rộng ra trên đất nước còn chìm đắm trong cảnh nô lệ và đói nghèo. Qua tâm trạng Liên, tác giả đồng thời cũng muốn thức tỉnh tâm hồn uể oải đang lụi tắt ngọn lửa lòng khao khát được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khao khát thoát khỏi cuộc đời tăm tối đang chôn vùi họ

Trích
Đây là phần bổ sung của riêng mình mà bài không đề cập đến.
+Liên chính là mô tuýp tâm trạng của bài. Tất cả hình ảnh của làng quê nghèo mang 1" nỗi buồn mang mác" đều được thể hiện qua ánh mắt (hay thực trạng làng quê nghèo được tái hiện qua góc nhìn cua Liên), cái nhìn của Liên nên nếu bạn không đưa chi tiết này vô coi chừng bị lạc đề (cô Kaito nói)
+Liên là 1 cô bé còn nhỏ nhưng có ý thức của 1 người chị và chút tự hào vì cái lớn của mình. Cụ thể là "Liên khóa vội tráp tiền với 1 chiếc khóa chị đêo cài vào cái dây xà tích...chị là người con gái lớn và đảm đang" hay biểu hiện ở việc nghe lời mẹ cố gắng thức chờ đợi đoàn tàu và để cho em ngủ->còn là 1 người yêu em mình (An)
+An là 1 đứa trẻ ngây thơ có một tuổi thơ không đc trọn vẹn. Tuy nhiên An cũng có ý thức và biết nhận định. Ý ngoài luồng: An chính là "hóa thân" của tác giả Thạch Lam trong câu chuyện 2 đứa trẻ

(Lê Thanh Trọng sưu tầm.nguồn 11t2sac30.co.cc và lethanhtrong.co.cc )
Về Đầu Trang Go down
http://teendamdoi.co.cc
»–™(¯º•Qµ€€n_§ø¢¶«•º¯)™–«
Admin
Admin



Tổng số bài gửi : 101
Points : 112
Join date : 06/11/2010
Age : 30

hai đứa trẻ của thạch lam  Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: hai đứa trẻ của thạch lam    hai đứa trẻ của thạch lam  Empty22nd November 2010, 9:26 am

maj` khum` hum~ maj`
Về Đầu Trang Go down
 
hai đứa trẻ của thạch lam
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn đàn lớp 11T2 THPT Đầm Dơi :: Tài liệu học tập :: Các mon khoa học,xã hội-
Chuyển đến 
Create a forum on Forumotion | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất